Ở Việt Nam và cả nước ngoài, giới nghiên cứu thường coi năm 1986 với Đại hội Đảng lần thứ VI là thời điểm bắt đầu công cuộc Đổi mới. Trong thực tế, trước đó nhiều năm đã có hàng loạt mũi đột phá can đảm, gian nan, trầy trật, mưu trí, sáng tạo, mà theo cách gọi thời đó là những cuộc “phá rào”. Phá rào tức là vượt qua những hàng rào về quy chế đã lỗi thời để chủ động tháo gỡ nhiều ách tắc trong cuộc sống, đồng thời cũng góp phần từng bước dẹp bỏ hàng loạt rào cản cũ kỹ để mở đường cho công cuộc Đổi mới.
Mục tiêu của cuốn sách này là góp phần dựng lại một bức tranh sống động, phong phú về những tìm tòi, tháo gỡ trong thời kỳ “phá rào” đó.
Nói đến phá rào, trước hết cần trả lời câu hỏi: Hàng rào là những gì?
Đó chính là những thể chế, những nguyên tắc của mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung được hình thành ở Liên Xô và sau đó được áp dụng tại hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Ở Việt Nam, mô hình này được áp dụng đầu tiên ở miền Bắc khi bước vào thập kỷ 60. Ngay từ thời kỳ đó, nó cũng đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Đảng, Nhà nước, nhiều nhà kinh tế và nhiều cán bộ địa phương khi thấy rõ điều đó đã có ý thức tìm tòi giải pháp để khắc phục. Các phong trào “Ba xây, ba chống”, “Cải tiến quản lý hợp tác xã”, “Cải tiến quản lý xí nghiệp”… được phát động chính là do người ta đã phát hiện ra những vướng mắc của mô hình này và thử tìm cách khắc phục. Nhiều nhà kinh tế cũng đã đề xuất một số ý kiến có tính chất đột phá như: Đa phương hóa xuất nhập khẩu, vận dụng quy luật giá trị trong việc hình thành giá thu mua. Một số địa phương, do sớm nhìn ra những nhược điểm của mô hình hợp tác xã nông nghiệp, đã chủ động áp dụng cơ chế khoán (có nơi áp dụng lén lút như ở Kiến An, Hải Phòng năm 1962; có nơi tiến hành công khai và đại trà trên toàn tỉnh như Vĩnh Phúc năm 1966-1968). Tất cả những mũi đột phá đó đều không đi tới đích như dự kiến. Một phần vì quan hệ quốc tế lúc đó, một phần cũng vì trình độ tư duy chung của cả xã hội đương thời chưa chín muồi cho việc đổi mới. Vả lại, trong hoàn cảnh chiến tranh, nhiệm vụ đánh giặc được đưa lên hàng đầu, nên những ý tưởng cải cách vẫn còn phải chờ đợi nhiều thập kỷ nữa.
Từ sau giải phóng miền Nam, mô hình kinh tế của miền Bắc được áp dụng cho cả nước. Nhưng hoàn cảnh lúc này đã khác. Nền kinh tế của miền Nam có hàng loạt đặc điểm mà không thể đơn giản áp đặt mô hình kinh tế của miền Bắc vào. Những phản ứng từ cuộc sống không dễ dập tắt chỉ bằng mệnh lệnh, lại càng không thể chỉ bằng một nhát đập bàn của một ai đó. Trước sự sa sút hiển nhiên về kinh tế từ những năm 1978-1979, khó còn có thể tiếp tục giải thích bằng những nguyên nhân nào khác ngoài bản chất cơ chế kinh tế và sự bất lực của những phương sách cứu chữa cũ. Từ đây, bắt đầu thời kỳ rất sống động của việc tìm tòi.
Rất nhiều biện pháp phá rào đã diễn ra ở các đơn vị, các địa phương, rất đa dạng và phong phú về phương pháp, về bước đi, về kết quả và nhất là về những phản ứng dây chuyền dẫn tới những sửa đổi của chính sách.
Dưới đây, xin lựa chọn 20 cuộc phá rào mà tác giả thấy có thể coi là tiêu biểu cho một ngành nghề, một lĩnh vực, một “nghệ thuật”...
Tất nhiên, khi đã phải phá rào tức là hàng rào có vấn đề. Nhưng mặt khác, đã phải dùng đến giải pháp phá rào thì ngoài những kết quả tích cực, cũng khó tránh khỏi một hệ quả tiêu cực là làm suy giảm hiệu lực của kỷ cương, làm tăng tính tự phát và tạo ra thói quen tùy tiện. Có những tìm tòi lúc ban đầu là đúng hướng, nhưng sau đó, khi cơ chế chính sách đã được sửa đổi, mà cứ đi tiếp theo hướng tự phát thì rất có thể lại mắc phải những sai lầm, tiêu cực, thậm chí sa vào vòng lao lý. Đó cũng là điều khó tránh trong sự nghiệp chuyển đổi của cả một nền kinh tế từ cơ chế cũ sang cơ chế mới, với biết bao thách thức khó khăn, phức tạp, cạm bẫy. Trong cuốn sách này, mục đích chính của tác giả chỉ là tôn vinh tinh thần tìm tòi, sáng tạo của những cơ sở, của những con người đã tìm được hướng đi đúng, không những cho cơ sở của mình, mà còn tìm ra hướng đi chung cho cả nền kinh tế.
Tác giả đã quan tâm đến chủ đề này từ khoảng 15 năm qua. Đó cũng là thời gian của suy nghĩ, tìm kiếm tư liệu và tiến hành khảo sát tại hàng chục tỉnh và thành phố, sục sạo rất nhiều cơ sở, phỏng vấn hàng trăm người khắp từ Bắc chí Nam, và cả người Việt ở nước ngoài trong các chuyến đi khảo sát ở Nga và Đông Âu để hiểu tường tận hơn những luồng hàng đánh đi và đánh về; lại tận dụng những chuyến đi họp và giảng dạy ở Mỹ, Pháp, Úc, Anh để khám phá những cách thức gửi tiền và hàng về nước, đặc biệt là hệ thống ngân hàng ngầm.
Sau đó, đầu năm 2004, công trình này đã được chấp nhận là Đề tài cấp Bộ của Viện Kinh tế Việt Nam mà tác giả là chủ nhiệm. Công trình được biên soạn xong vào năm 2005 trong sự cộng tác với một số bạn đồng nghiệp trẻ mà tác giả có trách nhiệm hướng dẫn nghiên cứu. Đề tài đã được nghiệm thu chính thức tại Tp Hồ Chí Minh với một Hội đồng thật đích đáng: Chủ tịch Hội đồng là GS.TS. Đỗ Hoài Nam (mà sau đó là đồng chủ biên cuốn sách), thành viên Hội đồng kỳ này có...
Giáo sư Đặng Phong là một nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam cận đại, lịch sử kinh tế Việt Nam và cũng là một nhà nghiên cứu kinh tế Việt Nam. Ông là một người bạn thân của nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Tiểu sử Ông sinh năm 1937 tại Hà Tây, mất vào ngày 20 tháng 8 năm 2010. Năm 1960, tốt nghiệp ngành lịch sử, Đại học Hà Nội Năm 1964, tốt nghiệp ngành Kinh tế Kế hoạch, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội Năm 1991, tốt nghiệp khóa đào tạo nâng cao, Học viện Kinh tế Địa Trung Hải, Montpellier, Pháp Ông mất năm 2010 do bệnh ung thư sau một thời gian chữa trị tại Việt Nam và Trung Quốc. Ngoài sự nghiệp nghiên cứu lịch sử kinh tế Việt Nam của mình, ông đã kinh qua nhiều công việc như ở Viện Kinh tế Việt Nam, giảng dạy ở trường Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, và là Phó Tổng Biên tập Tạp chí Thị trường & Giá cả từ năm 1983-1995, thỉnh giảng tại một số trường đại học và các viện nghiên cứu nước ngoài. Ông cũng từng là cộng tác viên của Trung tâm Khoa học Quốc gia Pháp (CNRS), Chủ tịch Tiểu ban Kinh tế Euro - Viet III, Amsterdam, 1997.
Tác phẩm So sánh đổi mới kinh tế Việt Nam và cải cách kinh tế Trung Quốc (cùng nhiều tác giả) Long An - mũi đột phá vào kinh tế thị trường (cùng Ngọc Thanh) Những bước đột phá của An Giang trên con đường đổi mới kinh tế Lịch sử Tây Nam Bộ kháng chiến, tập 1. 1945-1954 Kinh tế miền Nam 1954-1975 Lịch sử kinh tế Việt Nam, tập 1. 1945-1954 Lịch sử kinh tế Việt Nam, tập 2. 1955-1975 Lịch sử kinh tế Việt Nam, tập 3. 1975-2000 21 năm viện trợ Mỹ ở Việt Nam, 1991 Kinh tế thời nguyên thủy ở Việt Nam, 1970 "Phá rào" trong kinh tế vào đêm trước Đổi mới (Nhà xuất bản Tri thức, 2009) Tư duy kinh tế Việt Nam 1975-1989 - Nhật ký thời bao cấp (Nhà xuất bản Tri thức, 2008 - tái bản 2009) Tư duy Kinh tế Việt Nam - Chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975-1989 (Nhà xuất bản Tri thức, 2008 - tái bản 2010) 5 đường mòn Hồ Chí Minh, (Nhà xuất bản Tri thức, 2008 - tái bản 2010) [4] Chuyện Thăng Long–Hà Nội qua một đường phố, Nhà xuất bản Tri thức, 2010 (Thăng Long-Hanoi: The story in a Single Street, ấn bản tiếng Anh, Nhà xuất bản Tri thức, 2010)
Hầu hết mọi người ở Việt Nam đều thống nhất coi năm 1986 với Đại hội Đảng lần thứ VI là thời điểm bắt đầu công cuộc Đổi mới. Nhưng trước đó nhiều năm đã có hàng loạt mũi đột phá can đảm, gian nan, trầy trật, mưu trí, sáng tạo, mà theo cách gọi thời đó là những cuộc "phá rào". Phá rào tức là vượt qua những hàng rào về quy chế đã lỗi thời (mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung của Liên Xô áp dụng cho các nước xã hội chủ nghĩa ) để chủ động tháo gỡ nhiều ách tắc trong cuộc sống, đồng thời cũng góp phần từng bước dẹp bỏ hàng loạt rào cản cũ kỹ để mở đường cho công cuộc Đổi mới. Tập hợp 20 cuộc phá rào trước đại hội đảng 1986 tác giả lựa chọn đưa vào cuốn sách có thể coi là tiêu biểu cho một ngành nghề, một lĩnh vực từ sản xuất công nghiệp-vận tải cho đến sản xuất nông nghiệp, từ thương mại lưu thông phân phối hàng hóa trong nước cho đến buôn bán với nước ngoài, từ chính sách về giá cho đến thu/chi ngân sách, từ huy động vốn cho đến tích lũy ngoại tệ… Tác phẩm là một bức tranh kinh tế sống động về một giai đoạn lịch sử với nhiều khó khăn thách thức của đất nước. Không những thế những phân tích, đánh giá tổng kết cho mỗi câu chuyện cùng những các bài học kinh nghiệm được tác giả đúc kết có ý nghĩa sâu sắc và hữu ích trong cả thực tiễn và lý luận.