Tập tản văn gồm 23 tản văn là những hoài niệm và cảm nhận về Đà Lạt. Đà Lạt là sương mù, là rong rêu, là những phận người lặng lẽ nhưng không kém phần mãnh liệt. Đà Lạt đã ăn sâu vào tâm hồn tác giả như một ám ảnh không thể trục xuất ra khỏi đầu và ra khỏi trái tim.
Là một người khá yêu thích thành phố Đà Lạt, nên khi biết đến cuốn tản văn này là mình đã mua ngay, nhưng đến bây giờ mới lôi ra đọc ^^ Trong một năm dịch bệnh như thế này, muốn đi đâu du lịch cũng lo sợ, ngay cả ở trong nước, thì du lịch qua những trang văn chất chứa đầy tâm tình của Nguyễn Vĩnh Nguyên dành cho thành phố mà anh đã sống 5 năm tại đó có lẽ là trải nghiệm phù hợp nhất và an toàn nhất :D
Mình cực kỳ thích những phần đầu tiên của cuốn sách, khi tác giả viết về một Đà Lạt trong ký ức thời anh cùng các bạn còn là những chàng sinh viên. Những mảnh ký ức đơn thuần, những cảnh vật giản đơn, bình dị, nhưng qua cách viết của Nguyễn Vĩnh Nguyên, độc giả có thể cảm nhận được nỗi tiếc nuối hoài nhớ cảnh xưa người cũ như thế nào. Đà Lạt của những năm ấy dường như đã trở thành một phần linh hồn của Nguyễn Vĩnh Nguyên, đại diện cho một thời trai trẻ vô ưu vô lo, tràn đầy cảm thức khám phá và mơ mộng.
Lối viết của Nguyễn Vĩnh Nguyên đầy hoa mỹ, có cảm giác như bao nhiêu từ ngữ anh sử dụng cũng không đủ để tác giả giãi bày hết tâm tư và tình cảm của mình dành cho thành phố ngàn hoa. Vì lẽ đó, anh chuộng cách viết những câu dài dòng, bện xoắn, đôi khi có phần quá dài dòng và khiến độc giả khó nắm bắt được anh đang muốn nói điều gì. Thế nhưng, càng đọc về sau, mình lại càng ấn tượng sâu sắc với cái cách mà Nguyễn Vĩnh Nguyên phản ánh tâm hồn thực sự của Đà Lạt, cũng như thể hiện sự trân quý đối với tâm hồn của mảnh đất này. Đó là một mảnh đất được sinh ra để dành cho những người nghệ sĩ, đến đây để tìm mạch nguồn sáng tác của mình. Đó là thành phố của học thuật, của nghiên cứu, của những con người muốn trốn chạy sự mánh mung, xô bồ, đông đúc, ồn ã, chụp giựt của Sài Gòn để náu mình trong một thế giới tách biệt, mộng mơ, như thuộc về một thời đại khác.
Thế rồi, như một quy luật bất biến của vụ trụ, mọi thứ đều phải đổi thay, và cay đắng nhất, đó là dường như cái mánh mung, ồn ã, chụp giựt của Sài Gòn giờ đây cũng đã dần dần “vươn vòi bạch tuộc” của mình lên đến Đà Lạt. Cảnh cũ vẫn còn nhưng cái không gian sáng trong, cái bầu không khí “như thuộc về một thời đại khác” ấy đã không còn nữa. Nguyễn Vĩnh Nguyên cùng kha khá những người đã biết, đã gắn bó, đã say mê tâm hồn thật sự của một Đà Lạt chưa bị bê tông hóa và khai thác du lịch đến cạn kiệt đã tiếc nuối vô cùng trước sự đổi thay của mọi thứ và sự tác động một cách xấu xí của bàn tay con người. Là một người nào giờ chỉ đến với Đà Lạt với tư cách là một du khách chứ không phải một con người gắn bó máu thịt với mảnh đất này, thế nhưng mình cũng có thể cảm nhận được sự biến đổi đó của Đà Lạt, khi nhớ lại những gì mình đã nhìn, đã thấy, đã đi qua trong những chuyến đi đến Đà Lạt, và so sánh với những gì được miêu tả về Đà Lạt thông qua lăng kính của Nguyễn Vĩnh Nguyên. Đúng là có một sự buồn không hề nhẹ…
Nhưng rồi cuối cùng thì, Đà Lạt vẫn còn đó quán cà phê Tùng, nơi được nhắc đến rất nhiều lần trong cuốn sách, một trong số những nơi chốn hiếm hoi mà sự xô bồ, náo nhiệt, mánh mung của cuộc sống nơi thành phố lớn chưa thể và hy vọng là không bao giờ có thể chạm đến. Và Nguyễn Vĩnh Nguyên cùng rất nhiều những con người đau đáu vọng về một Đà Lạt xưa, có lẽ đều có thể tìm thấy dáng dấp một Đà Lạt ngày đó, một Đà Lạt sống mãi trong tim họ, tại nơi này...
Tôi nhận được Với Đà Lạt ai cũng là lữ khách của Nguyễn Vĩnh Nguyên vào một tối Đà Lạt có gió rả rích, có hàng mưa li ti trên phố. Quyển sách này em tặng tôi, được bọc trong giấy gói quà trang trí cho mùa Noel. Em muốn tôi cảm nhận được mọi thứ, mọi ý nghĩa mà thành phố nơi em khôn lớn lên dành tặng. Em muốn tôi là một phần trong em. Là một sự đóng góp cho Đà Lạt. Tôi bồi hồi vì không nghĩ ở cách xa nhau, lại được nhận món quà thân thương như vậy… Em ơi, em là Đà Lạt trong tôi rồi. Em nghe.
Cảm nhận đầu tiên và cũng có lẽ là cảm nhận duy nhất khi lật từng trang tập sách được viết bởi người đang mang tâm thế ưu buồn. Tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên thật sự có gì đó đang nuối tiếc. Tôi cảm nhận được tuổi trẻ của ông lưu lại ở Đà Lạt năm nào giờ nằm đây, chạm vào chữ là chạm vào ký ức, chạm vào các góc quá vãng xa lặng, ngai ngái xám.
Nguyên đến với Đà Lạt với tâm trạng của một người mất mát, của một thế hệ bỏ đi, cái thế hệ chẳng biết ngày mai mình sẽ làm gì, cần gì. "Nguyên đến với Đà Lạt khi Đà Lạt đang ở quãng rơi cuối cùng của nhan sắc". Cái thời Alexandre Yersin đến giờ. Và thế là hết. Chấm hết một thành phố mơ mộng. Mở ra một thành phố kiến tạo mới mà người "hôm qua" phải nhìu mày chăm chú cái vỏ bọc "hôm nay" mãi mới tìm được cốt lõi. Cái lõi bên trong kia là nhà cửa, cây cối hay hình bóng mơ dụ con người. Có chăng là tiếng đập của một trái tim Đà Lạt vẫn thoi thóp níu. Đà Lạt già rồi.
Khi đọc hơn mươi mẫu chuyện đời trong tập sách tôi thấy sự đượm buồn của ông là do trải nghiệm khá nhiều thứ: Ký ức, rượu chè, bạn bè và sự rực rỡ của ngọn lửa thiêu đốt tuổi trẻ. Nếu nói đâu là thái cực của cuộc sống thì có thể nói 1 bên là Đà Lạt, bên còn lại là Đà Lạt của Nguyên. Mỗi câu chuyện là một đoạn rời, một thước phim ngắn về thân phận người; là tôi - người khác - kẻ khác - kẻ khác trong tôi - tôi trong kẻ khác - không phải tôi hay kẻ khác mà là kẻ khác nữa. Góc được chọn quay thường là các góc thiếu sáng, âm u, buồn bã. Chỉ một chút mảng rêu bám tường; một góc khuất nơi quán cà phê; một mẩu tin bé tí teo về hoa anh đào; một sự bộc bạch về mùi hương ai đó hay sự than vãn về sự bừa bãi của bản thân; một thoáng bồi hồi về cái tháp chuông bỏ hoang tự khi nào; một con phố đèn khuya vàng vọt, thiếu sáng; một con hẻm lầy lội...
Và cái hay nhất đi kèm với các chi tiết tôi vừa tả lại là những chiếc bóng; chúng chậm rãi, di chuyển từng động tác của con người: lên xe, ngồi xuống, xăm soi; những chiếc bóng từ tốn nhấp từng li cà phê phủ thời gian xanh rờn qua mí mắt. Rồi ai biết được đâu đó một tiếng chuông nhà thờ ảo diệu rung động trong thinh không, liệu có ai đó đang chìm trong một giấc ngủ mơ… về... Đà Lạt.
Mấy ai nhận ra mình chỉ là lữ khách của thành phố này. Một vị trí như tác giả tự thú “vừa buồn tủi lại vừa khinh bạc, vừa kiêu hãnh là vừa dễ mủi lòng”. Dù cái bố trí đầy oái oăm của tạo hóa ấy đã tiếp thêm một cái nhìn đầy đủ, tinh tế nhất về thành phố. Có buồn, vui, có “Cái ảm đạm âm tính của khí trời, cái giá buốt ngún lên từ cây cỏ, đất đai, cái chập chùng phong kín của trùng mây u uất... sẽ chế ngự và nhấn chìm mảnh sinh phận héo hắt của con người nơi đây”.
Hay “..., những huyền thoại được dựng lên cho các thắng cảnh kích gợi sự tò mò của khách phương xa dều có bóng dáng của những cuộc tình tan vỡ và những cái chết. Những huyền thoại được thêu dệt cho cảnh sắc từ chính sự phi lí tràn đầy của con người”.
Tôi đóng tập sách lại. Nhìn ra cửa sổ lúc bấy giờ. Giờ mà người Đà Lạt về với gia đình, đắm chìm trong dòng xe lưu thông trên phố, chợt nghĩ vu vơ: Thật ra thì nỗi buồn của Đà Lạt là nỗi buồn sợ sệt. Ta buồn vì sợ một mai cái thành phố mà ta ích kỷ cất giữ trong lòng bao ký ức, sẽ bị ai đó lấy đi. Đà Lạt chẳng thuộc về ai cả, ngay cả Yersin cũng từng hối tiếc vì ông khám phá ra cao nguyên Lâm Đồng. Ông xin được nằm xuống ở Nha Trang và nợ một lời xin lỗi đến nó. Nó có lẽ thuộc về những đàn bò hoang dã, những rặng hoa rừng, những con suối nhỏ róc rách-thì thầm, của tảng sương mù dày đặc-uy nghi, của sự hùng vĩ chốn Lang Bi'ang núi trời. Chứ cũng chẳng phải là những ngôi biệt thự thời Pháp thuộc hay những bậc cầu thang đá lên dốc. Nhưng người Pháp họ cũng thật tinh tế, họ biết vừa khéo nịnh, vừa thêm thắt cho Đà Lạt cái vẻ buồn tình Paris mà vốn dĩ nó không hề có.
Để hậu thế mai sau… cứ người lên lại có kẻ đượm buồn da diết.
Không khí trong sách đậm hơi thở và thấm đẫm tình yêu Đà Lạt của chính tác giả. Cả quyển sách tựa như những cảnh phim chầm chậm ngăn ngắn ánh lên màn chiếu từ chính ký ức của tác giả. Những trang viết ngắn, giàu hình ảnh, nhiều từ ngữ Hán Việt ít được dùng ngày nay.
Một cuốn sách tuy mỏng nhưng đủ để đọc đổi gió sau khi vừa kinh qua những cuốn dày và căng não chẳng hạn.
Đọc tiểu thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Vĩnh Nguyên, cũng như cuốn tản văn trước đấy về xe cộ, tivi thì cuốn này khác hẳn. Không nói nhiều về cuộc sống, chỉ đơn thuần là cảm giác về Đà Lạt, là hoài niệm và về sự cô độc.
Có nhiều chỗ dài dòng, có nhiều chỗ lại ngắn đến buồn bã. Nhìn chung, cuốn tản văn đã tạo nên một không khí rất Đà Lạt, một bầu không khí mà bất kỳ lữ khách nào đã đến Đà Lạt, sẽ không bao giờ quên.
Đà Lạt, sáng bảnh mắt ra đã cảm giác hơi lạnh phà vào mặt. Sửa soạn Balô một chút rồi đi bộ từ Hoàng Hoa Thám qua Chợ Đà Lạt, vừa tản bộ vừa ngắm hoa đào & chụp choẹt nên quãng đường 5km trở về số 0... Thong dong đến chiều, ghé một hiệu sách cũ mua 2 cuốn của Balzac rồi qua Tùng cafe ngồi đọc một lèo hết cuốn sách của anh Nguyên dưới nền nhạc Trịnh. Bỗng cảm giác mình trở thành một phần của Đà Lạt lúc này, dẫu chỉ là lữ khách. Bởi tình yêu và sự tốt đẹp không cách nào diễn tả hết bằng lời, mà chỉ nên cảm nhận và thấm thía từng chút một...
mình thấy tiếc cho cuốn sách này bởi vì ngoài một vài quan điểm hơi cực đoan và phiến diện, thì mình thích nó, thích nó vô cùng. Lâu rồi mình mới đọc tản văn về một thành phố, nhưng mình vẫn nhận ra được mình yêu thích cuốn sách này không gắn liền và liên quan với việc mình quá yêu cái thành phố kia. Với mình, hai tình yêu đó đều to lớn, nhưng rành rẽ. Mình nhận ra thế khi mình đắm mình vào những con chữ đó, say sưa với nó, vui hay buồn bã cùng nó. Mình thích những câu văn đồng điệu chảy dài, như nỗi nhớ không bao giờ dứt. Đấy, thành thử ra mình đã nghĩ với cách quan sát và viết lách đó, dù chú Nguyên có viết về đâu, mình cũng sẽ yêu thương lắm.
nhưng rồi sau một hồi nghĩ lại, nếu không phải dalat, liệu có thể viết về như thế hay không, liệu có còn là những sự lãng mạn và sâu sắc đó, trần tình điềm tĩnh đó?
Đà lạt nay đã không còn như xưa. Lúc mình đọc quyển này là khi mình còn làm việc ở israel. Mình mong về nước để đến những nơi mà tác giả đề cập để tìm về Đà Lạt của dĩ vãng. Rồi mình cũng về nước, cũng lang thang vô cf Tùng, nhưng những gì mình cảm nhận thì Đà Lạt của mấy chục năm trước đã không còn ở đó
Câu chữ của tác giả làm mình chỉ muốn xách ba lô lên và đi ngay đến Đà Lạt ngay và luôn (không phải chỉ du lịch đâu đấy!). Tiện thể, sao dạo này mình coi bộ lại không tiếc chấm nhiều sao cho những quyển truyện ngắn hay tản văn nhỉ?..Haiz...Sách mỏng mà có võ - nó là thế
Review] Đứng trước Đà Lạt mọi ngôn ngữ của tôi đều trở nên bất lực nhưng ngôn ngữ của Nguyễn Vũ Nguyên lại trở nên vô cùng kỳ diệu VỚI ĐÀ LẠT AI CŨNG LÀ LỮ KHÁCH Ngôn từ rất thơ,câu văn rất mạch lạc. Có lẽ bởi đó là Đà Lạt. Một Đà Lạt những ngày xưa cũ thu bé lại trong 158 trang. Tôi thích cách tác giả gọi Đà Lạt là Phố Núi thay vì thành phố ngàn hoa hay Thành Phố Sương Mù vân vân và mây mây như người ta vẫn gọi. Cái cách gọi ấy giản dị, không quá mỹ miều, chỉ nhắc đến thôi là núi non Đà Lạt lại hiện ra trước mắt trập trùng mù sương khói như sóng xô biển động. Tác giả đã nói rất nhiều về sự tĩnh lặng của Đà Lạt khi ấy ( theo tôi thấy thì sự tĩnh lặng ấy đến nay vẫn còn), một sự tĩnh lặng hiếm hoi không phải đâu cũng có. Cùng với Sương Và Đêm, sự Tĩnh Lặng đã làm nên một Đà Lạt với vẻ đẹp rất huyền bí. Sự yên tĩnh ấy khiến cho Đà Lạt sinh ra những con người khùng điên, sự yên tĩnh ấy khiến cho Đà Lạt trở thành mảnh đất cho tâm hồn nghệ sĩ bay cao, sự yên tĩnh ngày ấy làm nên hai chữ Đà Lạt. Trong những câu truyện của tác giả, thi thoảng có người nhưng mờ mờ ảo ảo dưới tầng tầng lớp lớp sương mù của Phố Núi. Tưởng là câu chuyện của người hóa ra lại là một câu chuyện khác của thành phố, là tâm hồn của con người và cũng chính là tâm hồn của thành phố. Nếu yêu Đà Lạt hãy một lần đọc cuốn sách này, nếu đang xa Đà Lạt hãy đọc cuốn sách này để trở về, còn nếu chưa từng biết Đà Lạt là gì hãy để Nguyễn Vĩnh Nguyên dẫn bạn đi một lần cho biết. P/s:Sự thay đổi duy nhất tôi muốn chính là đảo lại 2 bài tản văn cuối vùng của cuốn sách cho nha
Đọc và thấy nhớ Đà Lạt Nhớ thành phố hiền lành, đêm sương lạnh tĩnh mịch, con dốc dưới ánh đèn lẻ loi. Nhớ rừng thông xanh, buổi chiều bước trong khu rừng ẩm, nghe âm thanh vang vọng như trong những vòm hang mênh mông...
Cách dùng từ của anh Nguyên đôi lúc khiến mình như bị bội thực từ vựng, dù ngôn từ anh ấy dùng đúng là phù hợp để diễn tả bằng hết tình yêu Đà Lạt của anh. Cả đọc xong quyển này và nhìn lại Đà Lạt bây giờ chỉ khiến mình buồn hơn.