Đoàn’s
Comments
(group member since Jul 14, 2011)
Đoàn’s
comments
from the A Reading Club for Vietnamese group.
Showing 1-14 of 14

http://www.goodreads.com/group/show/1...
(Ở bên đó sôi động hơn, thảo luận nhiều hơn)

http://www.facebook.com/thu.phong.1811


Đây là cuốn từ điển biểu tượng được ưa chuộng nhất thế giới bởi tính chất ngắn gọn, súc tích và đầy thẩm quyền về sự thông giải tâm linh. Trên thế giới có vài chục cuốn từ điển về biểu tượng nhưng phần lớn nặng về sự kiện và tư liệu, thường làm người đọc rối trí vì dữ kiện hơn là sự sáng suốt và có chiều sâu đạo học như đặc điểm của cuốn này. Nó theo đúng như chủ trương của Lão Tử – người sáng lập Đạo giáo ở phương Đông: “Học nhật ích, đạo nhật tổn”, nghĩa là, người lo học thì mỗi ngày một tích lũy thêm, còn người hành đạo thì ngày một bỏ bớt đi. Từ gần một nửa thế kỉ nay, đây là cuốn từ điển gối đầu giường của những ai chăm lo nuôi dưỡng nguồn mạch tâm linh trong một thế giới ngày càng bị tha hoá bản sắc trước hố ngăn cách giàu-nghèo, trước các vấn đề về toàn cầu hoá, và cả nguy cơ hủy diệt con người và tự nhiên.
(lời của nhà nghiên cứu Nguyễn Tiến Văn)
---
Có thể coi hai bài dịch này từ cuốn từ điển trên:
Những bí ẩn triết lý và Đạo học của các con số
Tính biểu tượng của màu sắc


Cuốn sách bàn về tiếng Việt của Phan Khôi, một trong những thức giả hàng đầu của Việt-nam thời kì trước 1975.
Mặc dù không phải chuyên về ngôn ngữ học, nhưng bằng cách dùng luận lí học cùng phương pháp so sánh đối chiếu, và với sở đắc uyên thâm của mình thì ông Phan Khôi đã viết loạt bài tiểu luận về tiếng Việt để rồi sau này gộp thành cuốn sách mang tên "Việt ngữ nghiên cứu". Trong cuốn này, Phan Khôi đi đến những vấn đề khác nhau trong tiếng Việt bằng lối phân tích và diễn giải rất thú vị, chẳng hạn như người Việt ta hay gọi "cái nhà", "con tàu", vậy tại sao gọi vật này là "cái", gọi vật kia là "con", Phan Khôi sẽ giải thích cho ta rõ.


2nd edition. Routledge xuất bản năm 2007
Cuốn sách giới thiệu một cách khái quát những nét chính của 50 nhà tư tưởng đương đại, thuộc nhiều trường phái khác nhau, như: Gaston Bachelard, Martin Heidegger, Noah Chomsky, Jacques Derrida, Michel Foucault, Umberto Eco, Theodor Adorno, Franz Kafka, Henri Bergson, Sigmund Freud, v.v..

- Nhân tình: tình của người ta
- Tình nhân: người tình

---

English Prepositions Explained
English Prepositions Explained của Seth Lindstromberg, nhà John Benjamins xuất bản năm 2010.
Cuốn này có bìa giông giống loạt sách "in use" của nhà Cambridge (Grammar in Use, Vocabulary in Use), nhưng đây không phải là "Prepositions in Use" mà là "Prepositions Explained", không chỉ nêu ra cách dùng mà còn kèm theo giải thích cũng như đưa ra so sánh đối chiếu giữa những giới từ với nhau.
Đôi nét về nhà xuất bản: nhà John Benjamins có vẻ không mấy quen thuộc với nhiều người, nhưng nhà này cùng với nhà Elsevier (theo tui) là hai nhà xuất bản chất lượng nhứt hiện nay của Hà-lan, và cả hai đều có trụ sở chính tại Amsterdam. Nhà John Benjamins này chuyên xuất bản những đầu sách mang tính học thuật cao ở lĩnh vực ngôn ngữ học và tâm lí học, ví dụ như cuốn Theory Construction in Second Language Acquisition của Geoff Jordan, Languages and Cultures in Contrast and Comparison của Maria De Los Angeles, Neural Basis of Consciousness của Naoyuki Osaka, v.v..
(Trong phần Bookshelf của nhóm, tui có add cuốn này vào, và đưa link tải ebook trong đó luôn)

Một số biến đổi về ngữ nghĩa
Hiện nay trong tiếng Việt có một số từ Hán-Việt mà ngữ nghĩa của nó đã biến đổi khá xa với cái nghĩa gốc ban đầu, không rõ vì nguyên do gì, chỉ mới vài chục năm trôi qua mà ngữ nghĩa đã trôi dạt xa đến vậy.
Một từ tiếng Việt điển hình cho sự biến đổi ngữ nghĩa này là từ “khốn nạn”. Theo cả hai từ điển Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức và Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh thì từ “khốn nạn” đều mang cùng một nghĩa là “khó khăn, lúng túng”, có thể nói nó gần như đồng nghĩa với từ “khốn khổ” trong cái tựa “Những người khốn khổ” của Victor Hugo (tôi đọc ở đâu đó nói rằng ngày xưa cái tựa Les Misérables ban đầu được dịch là “Những người khốn nạn”). Nhưng hiện nay tuyệt đại đa số mọi người dùng từ “khốn nạn” này với nghĩa miệt thị và đánh giá về tư cách đạo đức của một người (ví dụ như nói “thằng này thật là khốn nạn” nghĩa là bảo “thằng đó” tư cách đạo đức tồi). Căn nguyên của sự biến đổi này thật không rõ, nhưng theo suy luận logic thì tôi nghĩ có hai nguyên do thế này: người ta lâm vào cảnh khốn khó, nên có thể trong một số ngữ cảnh nào đó đã thốt lên rằng “Tôi thật khốn nạn”, và người nghe có thể đã hiểu sai ý của câu tự thán đó, sinh ra sự biến đổi về nghĩa; hoặc là chính vì cái sự khốn khó mà con người ta bị dồn vào cái thế làm những chuyện mất tư cách đạo đức, dần dần từ “khốn nạn” được chuyển sang cái nghĩa chỉ về tư cách đạo đức của một người.
Một từ khác mà trong quá trình tìm tòi tôi cũng phát hiện ra ngữ nghĩa bị biến đổi đi khá xa, đó là từ “tử tế”. Ví dụ cho một cụm tiếng Anh thế này: “a very kind person”, thì những người biết tiếng Anh đa số sẽ dịch sang là “một người rất tử tế”, nhưng nếu dò theo nghĩa đúng của từ “tử tế” thì sẽ thấy ngay cách dịch đó là không đúng với nghĩa gốc của “tử tế”, vì từ này mang nghĩa là “tinh mật, kĩ càng” (theo Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh), hoặc nghĩa là “chu đáo, kĩ càng” (theo Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức), chứ không hề mang nghĩa “tốt bụng” như nghĩa của từ tiếng Anh “kind”. Nếu phải dịch sang tiếng Anh cho đúng với nghĩa gốc của từ “tử tế” này thì từ tiếng Anh là “careful” có vẻ đúng nhất. Tuy nhiên, từ “tử tế” hiện nay vẫn còn được dùng đúng nghĩa gốc một phần nào đó, như cụm từ mà người ta hay nói “học hành tử tế” chính là “học hành kĩ càng” vậy.
Thêm một từ nữa để minh hoạ cho sự biến đổi ngữ nghĩa một cách khó hiểu của tiếng Việt: từ “nhất thiết”, hiện nay mọi người đều dùng từ này với nghĩa “tất yếu” hay "cần thiết", đồng nghĩa với từ “necessary” bên tiếng Anh. Lại mở Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh và Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, thì cả hai đều bảo rằng “nhất thiết” nghĩa là “hết thảy, tất cả”. Từ “hết thảy” sang “tất yếu” thì quả là không tài nào đoán được nguyên do là vì đâu.
Có một từ mà khá nhiều người đã hiểu sai nghĩa của nó, đó là từ “cứu cánh”. Nhiều người không biết nghĩa của từ này thường hay hiểu từ này với nghĩa là “cứu giúp” hoặc “cứu vãn”, nhưng đây là một từ Hán-Việt, và nghĩa đúng của nó là “mục đích cuối cùng”.
Một từ nữa cũng hay bị dùng sai mà tôi để ý được, đó là từ “tự vẫn”. Đa số mọi người dùng từ này thay thế cho từ “tự tử”, cách dùng đó cũng đúng nhưng còn phải tuỳ trường hợp, vì từ “tự vẫn” nghĩa là “tự đâm vào cổ mà chết”, “vẫn” trong “tự vẫn” có nghĩa là “cắt cổ” (nghĩa này có ở cả hai từ điển của Đào Duy Anh và của Hội Khai Trí Tiến Đức). Cho nên từ “tự vẫn” chỉ có thể dùng trong trường hợp người đó dùng dao hay dùng vật nhọn gì đó để tự sát, còn nhảy sông mà “tự vẫn” thì không đúng (nhảy sông là “tự trầm”, chứ vừa nhảy sông vừa đâm vào cổ thì thảm quá).
Trong cách dùng từ sai, có một chuyện nữa là người ta hay có xu hướng đảo từ lại: như từ “nhân chứng” và từ “chứng nhân”, cả hai từ này đều được đa số dùng chung một nghĩa là “người làm chứng”, nhưng thật ra chỉ có từ “chứng nhân” mới mang nghĩa đó. Cấu trúc của một danh từ Hán-Việt là “phụ trước-chính sau”, cho nên khi đảo từ lại thì sẽ sinh ra nghĩa khác ngay. Từ “chứng nhân” nghĩa là “người làm chứng”, còn từ “nhân chứng” nghĩa là “vật chứng mà người làm chứng mang lại” (theo Hán-Việt từ điển của Đào Duy Anh). Tương tự vậy những cặp từ như “yếu điểm” và “điểm yếu”, “nhân công” và “công nhân”, “nhân tình” và “tình nhân”, “nhân văn” và “văn nhân”, v.v. đều có nghĩa hoàn toàn khác nhau.
Duy Doan.
Sài-gòn,
20110114.


Tập san Sử Địa là một tập san sưu tầm, khảo cứu chuyên ngành do nhóm giáo sư, sinh viên Đại học Sư phạm Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn chủ trương thực hiện, phát hành mỗi 3 tháng. Tập san do nhà nghiên cứu Nguyễn Nhã chủ biên với sự bảo trợ của nhà sách Khai Trí tại Sài Gòn. Toàn bộ Tập San Sử Địa gồm có 29 số (22 tập), được phát hành từ năm 1966 cho tới sự kiện 30/4/1975 thì ngừng lại.
Ban chủ biên tập san có sự tham gia của các chuyên gia như giáo sư Nguyễn Thế Anh, Bửu Cầm, Phan Khoang, Phạm Văn Sơn, Phạm Cao Dương, Quách Thanh Tâm, Trần Anh Tuấn, Tạ Chí Đại Trường, Chen Chin Hô tức Trần Kình Hòa, Đặng Phương Nghi... Ngoài ra còn có một số nhà nghiên cứu tham gia viết bài như Hoàng Xuân Hãn, Lê Văn Hảo, Vương Hồng Sển, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Hùng Cường, Nguyễn Đăng Thục ..
http://www.mediafire.com/?hu81onrstctma