Phạm Thị Hoài's Blog
June 3, 2024
Khi em là lưỡi dao
Phạm Thị Hoài
“Tiến sĩ Franz Kafka, một nhà văn Đức sống ở Praha, vừa qua đời hôm kia tại viện dưỡng liệu Kierling thuộc Klosterneuburg, ngoại ô Wien. Ít người biết đến ông, bởi ông độc vãng độc lai, một bậc thức giả khiếp sợ thế gian. Ông bị bệnh đường phổi đã nhiều năm và có đi điều trị, song lại chủ tâm duy trì và nâng đỡ bệnh bằng tâm trí. Khi trái tim và tâm hồn không còn kham nổi gánh nặng thì lá phổi nhận về phần mình một nửa để chia đều sức chịu tải, như ông từng viết trong một bức thư, và ông đã mang bệnh đúng như vậy. Nó cho ông một hệ giác quan tinh tế đến mức gần như siêu nhiên và một sự tinh luyện trí tuệ khước từ mọi thỏa hiệp đến mức đáng sợ. Với những ác quỷ vô hình, ông, một con người, đã trút lên căn bệnh toàn bộ gánh nặng của nỗi kinh hãi cuộc sống.
Ông là người nhút nhát, e sợ, hiếu hòa và hiền lương, nhưng sách ông viết thì tàn nhẫn và đau đớn. Với ông, thế giới là chốn cư ngụ của một nhân quần giằng xé và hủy diệt con người vô phương kháng cự. Ông quá thấu thị, quá thông tuệ để có thể sống; quá yếu ớt để có thể chiến đấu, như thường thấy ở những con người đẹp đẽ, cao quý; họ không thể đương đầu với nỗi sợ trước những hiểu lầm, bất lương và dối trá trí thức, bởi họ biết trước rằng mình bất lực; và cách mà họ thất bại khiến kẻ chiến thắng phải hổ thẹn. Ông thấu hiểu con người, như chỉ một con người với bộ óc vô cùng mẫn cảm mới có thể thấu hiểu, một con người cô đơn, nhận ra kẻ khác trong một tia chớp mắt, như thể tiên tri. Ông nhận thức thế giới theo một cách sâu thẳm và khác thường, chính ông là một thế giới sâu thẳm và khác thường.
Ông đã viết những cuốn sách quan trọng bậc nhất của văn học Đức mới, chứa đựng sự vật lộn của cả thế hệ hiện nay trên thế giới, tuy không một lời dụng ý. Đó là những tác phẩm chân thực, trần trụi và đau đớn, ngay cả khi dùng biểu tượng vẫn không thể hiện thực hơn, đượm vẻ giễu cợt khô khốc cùng cái nhìn tinh tường của một con người đã thấu tỏ thế giới này tới mức không còn chịu nổi và chọn cái chết, để tránh phải nhượng bộ, phải trốn chạy vào các kiểu lầm lạc dù sang trọng đến đâu của lý trí hay tiềm thức.
Tiến sĩ Franz Kafka là tác giả của Người đốt lò (bản dịch tiếng Tiệp đăng trên tạp chí Červen của Neumann), chương mở đầu một tiểu thuyết tuyệt vời còn chưa xuất bản; truyện Phán quyết, về xung đột giữa hai thế hệ; truyện Hóa thân, tác phẩm mạnh mẽ nhất của văn học Đức hiện đại; truyện Ở đảo trừng giới và các đoản văn Trầm tư và Thầy thuốc nông thôn. Bản thảo tiểu thuyết cuối cùng của ông, Vụ án, chờ xuất bản từ nhiều năm, là loại sách mà đọc xong, ấn tượng về một thế giới tuyệt đối khép kín khiến không cần thêm một lời nào nữa. Mọi tác phẩm của ông đều diễn tả nỗi kinh hoàng của những điều không thể lý giải bí ẩn, của tội lỗi ngoài chủ định giữa người với người. Ông, nghệ sĩ và con người, là một lương tri nhạy cảm tới mức vẫn nghe ra một điều gì đó khi những ai khác, ù điếc, chắc mẩm đang an toàn.”
*
Đó là cáo phó đầu tiên, đăng ngày 6/6/1924 trên nhật báo Národní Listy tại Praha, với những từ khóa vẫn dẫn lối cho những ngả đường khó khăn đến với Kafka, 100 năm sau khi ông qua đời ngày 3/6/1924. Tác giả là Milena Jesenká, khi ấy chưa đầy 28 tuổi, bạn tình chủ yếu qua thư của Kafka vỏn vẹn sáu tháng, người tâm giao nhất song cũng vật vã phức tạp nhất trong sáu phụ nữ đã đi qua đời ông. Bà cũng là dịch giả đầu tiên của ông, bản tiếng Tiệp truyện Người đốt lò là bản dịch duy nhất được công bố khi ông còn sống.
Tiến sĩ luật Franz Kafka, viên chức bảo hiểm viết văn trong giờ rảnh, người không muốn lưu lại bất kỳ một dấu vết văn chương nào, nay nằm trọn trong vòng tay ngưỡng mộ khóa chặt của nhân loại, thậm chí thành một minh tinh triệu like trên TikTok. Cả những người chưa từng đọc Kafka cũng biết trích dẫn ẩn dụ nổi tiếng của ông, rằng một cuốn sách phải như chiếc rìu bổ vỡ biển băng đông cứng trong ta. Những người có thể chưa từng yêu cũng nên biết một ẩn dụ Kafka khác: Trong bức thư gửi Milena Jesenká ngày 14/9/1920, ông viết:
“Có lẽ cũng không thực là tình yêu nếu tôi nói, với tôi, em là quý giá nhất; Là tình yêu, khi em là lưỡi dao, để tôi đào xới trong tôi.”
(Auch ist das vielleicht nicht eigentlich Liebe, wenn ich sage, du bist mir das Liebste; Liebe ist, dass du mir das Messer bist, mit dem ich in mir wühle.)
© pro&contra 2024
October 31, 2023
Lạc vào trăng
Phạm Thị Hoài
Chỉ gồm ba từ khóa, ba danh từ biểu thị những nội dung cụ thể và rõ ràng trong mọi ngôn ngữ: killer, flower, moon – sát thủ, hoa, trăng – song nhan đề bộ phim mới của Martin Scorsese cũng đang chiếu ở Việt Nam, Killers of the Flower Moon một lần nữa xác nhận ví dụ nổi tiếng của Walter Benjamin về sự bất khả dịch: đều là bánh mì, nhưng pain với người Pháp không giống như Brot với người Đức.
Phiên bản tiếng Việt của Killers of the Flower Moon là Vầng trăng máu, hỏng cả về chữ lẫn nghĩa.
Phần chữ hỏng vì trăng máu hay trăng huyết không liên quan đến máu me giết chóc, tội ác ghê rợn; đó chỉ là tên gọi phổ biến cho hiện tượng mặt trăng chuyển màu đỏ sẫm trong nguyệt thực toàn phần.
Phần nghĩa càng hỏng. Ẩn dụ nền tảng cho câu chuyện đau thương của bộ tộc Osage xuất hiện ngay ở đầu cuốn sách cùng tên của nhà báo David Grann, cung cấp bối cảnh cho bộ phim nói trên: Tháng Tư, muôn loài hoa nhỏ nở rộ như một thiên hà công-phét-ti rắc lên vùng đất của thổ dân Osage. Song tháng Năm, chúng bắt đầu bị những thực vật mọc cao hơn trườn lên, đè đầu, cướp nguồn sống là nước và ánh sáng. Chúng gãy cổ, rụng lá và chẳng bao lâu sau bị chôn vùi dưới lòng đất. Vì thế thổ dân Osage cũng gọi tháng Năm, tháng chuyển mùa, vốn là tháng hay mùa trăng của hoa (Flower Moon), là tháng hay mùa trăng diệt hoa (flower-killing moon). Anna Brown, chị gái của Mollie Burkhart, nhân vật chính trong phim, cũng bị giết vào tháng Năm, cũng bị đè đầu, cướp nguồn sống và chôn vùi như những nạn nhân Osage khác, và sát thủ là những người da trắng. Ẩn dụ này không liên quan đến một vầng trăng nào đó, bất kể máu hay không máu. Trăng ở đây là mùa trăng, là thời, là tháng, như chữ “nguyệt” trong tiếng Việt. Killers of the Flower Moon là những kẻ diệt mùa hoa.
Song không phải chỉ tiếng Việt mới lúng túng. Phần lớn các ngôn ngữ châu Âu giữ nguyên nhan đề tiếng Anh, không dịch. Tiếng Hung một mình một cõi, chọn cách dịch nghĩa: Megfojtott virágok (Những bông hoa bị bóp nghẹt). Tiếng Nhật cũng giữ nguyên tiếng Anh, chỉ phiên âm kiểu Nhật: キラーズ・オブ・ザ・フラワームーン. Tiếng Hàn có hai phiên bản, phiên âm của Killers of the Flower Moon: 킬러스 오브 더 플라워 문, và phiên âm của Flower Killing Moon: 플라워 킬링 문.
Rất may là tiếng Việt không theo tiếng Trung để dịch 花月殺手 (Hoa nguyệt sát thủ) thành Sát thủ trăng hoa. Và không theo ChatGPT. Nó hùng hồn dịch Killers of the Flower Moon là Kẻ sát nhân của hoa mặt trăng hoặc Kẻ sát nhân của mặt trăng hoa.
10/2023
April 3, 2023
Phạm Đình Trọng – Linh Nghiệm của cuộc đời (phần 3)
6. Lặng lẽ bên nhau
Trần Huy Quang và tôi có nhiều cái cùng khá ngẫu nhiên. Cùng là lính trẻ hăm hở đến với văn chương. Cùng thấy báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam như cung đình văn chương xa vời, cao siêu quá. Cùng dành tình cảm cho tập tạp chí của lính, tạp chí Văn Nghệ Quân Đội từ tên gọi đã vô cùng gần gũi, thân thiết với chúng tôi và truyện ngắn đầu tiên của Quang và tôi cùng được đăng năm 1967 ở tập tạp chí được phát về đến đại đội, được lính chuyền tay nhau.
Ngoài những tập truyện ngắn do các nhà xuất bản tuyển chọn, đôi lần tôi và Quang cùng có truyện được chọn, cùng có tên trong một tập truyện như tập Lời nguyền thời con gái, NXB Quân đội Nhân dân, phát hành năm 1988 với số lượng mười ngàn cuốn, Quang có truyện ngắn Lời nguyền thời con gái, tôi có truyện ngắn Đi tìm một tín hiệu.
Quang và tôi còn có hai cái cùng đáng nhớ. Cùng có giải thưởng trong cuộc thi bút kí năm 1986 – 1987. Quang được giải nhất với Câu chuyện về ông Vua Lốp. Tôi nhận giải nhì với Điểm cao trước mặt về những người lính giữ đất hương hoả của cha ông ở biên giới phía Bắc trong cuộc Chiến tranh Biên giới mười năm 1979 – 1989.
Hôm nhận giải thưởng ở hội trường Đài Tiếng nói Việt Nam, nhà 58 phố Quán Sứ, Hà Nội, giữa ồn ào đông vui, rất đông các nhà báo ríu rít gặp nhau, tôi và Quang lặng lẽ ngồi bên nhau ở hàng ghế cuối. Thân thiết, quí mến nhau nhưng cùng không ham nhậu nhẹt, cùng ngại đến chỗ đông người, tôi và Quang ít khi có dịp gặp nhau nhưng khi gặp nhau, chỉ cần nhìn thấy nhau và lặng lẽ bên nhau là đủ.
Nhà thơ Trần Nhật Lam, trưởng Ban Văn Nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam đọc tên mười hai người trúng giải thưởng và mời lên nhận giải. Chỉ bảy người có mặt. Tôi lại đứng bên Quang và Quang đứng cạnh Thao Trường, tác giả Gặp lại anh hùng Núp, cũng được giải nhất. Sau này khi viết Mảnh đất lắm người nhiều ma, tiểu thuyết giành giải nhất của giải thưởng hàng năm Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, nhà văn lính Thao Trường lấy lại tên khai sinh là Nguyễn Khắc Trường.
Mỗi người trúng giải được nhận một phong bì nhỏ và mỏng. Trong phong bì có tờ giấy mỏng xám vàng, loại giấy pelure của nhà máy giấy nội Lửa Việt và món tiền giải thưởng. Chữ đánh máy trên tờ giấy mỏng xám vàng, ngôn từ và nội dung chỉ là văn thư hành chính nhà nước, một giấy mời chứ không phải tấm bằng công nhận một giải thưởng văn chương và người nhận giải thưởng văn chương được gọi là đồng chí chứ không phải nhà văn, nhà báo:
Ban Tổ chức cuộc thi bút kí. Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam… Hà Nội ngày 23 tháng 6 năm 1987. Kính gửi đồng chí… Ban Tổ chức cuộc thi bút kí do tuần báo Văn Nghệ và Đài Tiếng nói Việt Nam phối hợp tổ chức từ 1-1-1986 đến 30-4-1987 xin trân trọng thông báo:
Bút kí… của đồng chí đã được Hội đồng Chung khảo quyết định: Tặng giải:… Lễ trao giải sẽ được tổ chức vào hồi 9 giờ ngày 1-7-1987 tại Đài Tiếng nói Việt Nam, số 58 phố Quán Sứ, Hà Nội. Kính mời đồng chí tới dự.
Tiếp theo những câu chữ đúng khuôn mẫu văn thư hành chính là dấu son của báo Văn Nghệ và chữ kí của Tổng Biên tập báo Văn Nghệ, nhà văn Đào Vũ.
Tiền giải thưởng cũng rất đạm bạc. Cuộc thi văn chương cấp quốc gia, giải nhất năm trăm ngàn đồng. Giải nhì ba trăm ngàn đồng… Lúc đó ở thị trường một chỉ vàng có giá ba trăm năm mươi ngàn đồng.
Ngày nay sau buổi lễ như vậy, ban tổ chức đều mời người tham dự đi nhà hàng nhưng lúc đó sau hồi vỗ tay trao nhận giải thưởng, ban tổ chức có lời cảm ơn và kết thúc. Phóng viên các báo đến đưa tin lại ríu rít rủ nhau ra bia hơi vỉa hè Cổ Tân. Quang kéo tôi về nhà 56 Bà Triệu.
Về Ban Xã hội báo Độc Lập, Quang được báo phân cho nửa gian nhà trên căn gác hai, nhà 56 phố Bà Triệu. Nửa gian kia là của nhà thơ Vân Long ở Ban Văn nghệ của báo. Từ 56 Bà Triệu sang cơ quan báo 59 Lý Thường Kiệt chỉ một đoạn ngắn. Hàng ngày Quang lững thững đi bộ đoạn đường ngắn đó. Đến 58 Quán Sứ cũng chỉ thêm mấy bước chân, Quang cũng đi bộ.
Quang pha trà Thái, mang kẹo cu đơ là đặc sản của mảnh đất Nghệ Tĩnh quê Quang ra mời tôi, còn Quang ngồi ngửa mặt thả khói thuốc lá lên trần nhà. Quang không nghiện thuốc lá nhưng đôi khi vẫn thả nghĩ ngợi theo khói thuốc vào mông lung. Không ham của ngọt, tôi nhấm nháp vị trà Thái và đọc thơ Trần Lê Văn trên trang Văn Nghệ tờ báo nơi Quang làm việc.
Quang và tôi cùng đồng tác giả trong tập sách Kim Đồng. Những truyện đồng thoại, cổ tích tôi viết và đã đăng ở chuyên mục “Mẹ kể con nghe“ trên báo Phụ Nữ Việt Nam theo đặt hàng của nhà báo Bằng Thương, tôi tập hợp thành tập truyện đồng thoại Sự tích những hòn đảo gửi cho NXB Kim Đồng. Chỉ ít ngày sau một phụ nữ trắng trẻo, mảnh mai đạp xe đến gặp tôi ở cơ quan tôi làm việc. Chị là biên tập viên NXB Kim Đồng, tên Lê Thị Dắt.
Chị Dắt nói rằng trình bản thảo Sự tích những hòn đảo, Tổng Biên tập cho ý kiến là bản thảo tốt, mở ra thế giới tâm hồn cho tuổi thơ. Những truyện thần thoại về biển lí giải rất thú vị về những hòn đảo ngoài Biển Đông là một phần máu thịt của đất Mẹ Việt Nam, gieo mầm lòng yêu nước vào tâm hồn tuổi thơ. Nhưng sách hơi mỏng. Tổng Biên tập mách rằng nhà văn Trần Huy Quang cũng có những truyện đồng thoại về núi rừng, về con người. Có thêm truyện đồng thoại thần tiên của Trần Huy Quang tập sách sẽ có hai phần hữu cơ, đầy đủ rừng và biển của đất nước Việt Nam. Tôi liền nhận với chị Dắt việc tập hợp thêm bản thảo của Quang.
Quang mau mắn đưa cho cho tôi bảy truyện đồng thoại và cổ tích. Tháng Sáu năm 1990, tập truyện cho tuổi thơ Núi chạy của tôi và Quang được NXB Kim Đồng phát hành tám ngàn cuốn. Tôi có hai truyện, mỗi truyện hơn hai ngàn chữ về biển đảo: Đảo chim trắng và Sự tích những hòn đảo ở Biển Đông. Quang có năm truyện, mỗi truyện trên dưới một ngàn chữ về rừng, núi, con người và sự vật: Núi chạy, Sự tích ngày và đêm, Người và Trời, Hổ và mèo là hai anh em, Thanh bảo kiếm.
Những truyện đồng thoại thần tiên của Trần Huy Quang và tôi lặng lẽ bên nhau trong tập sách mỏng dành cho tuổi thơ thần tiên như chúng tôi lặng lẽ bên nhau trong thế giới văn chương thần tiên và trong cuộc đời ngắn ngủi.
7. Không kịp rồi

Cuối năm 2015 Quang vào Sài Gòn, phôn báo cho tôi biết đang ở chỗ hoạ sĩ Nguyễn Hồng Hưng, quận Mười. Tôi liền phóng xe máy đến đón Quang về nhà tôi. Ngồi với Quang bên chiếc bàn đặt laptop làm việc của tôi trên lầu 25 toà nhà H.A. Goldhouse, tôi đã lập tài khoản facebook cho Quang khi biết Quang chưa có trang báo mạng cá nhân của mình. Tôi chỉ cho Quang việc làm chủ trang facebook và Quang đang thực hiện những thao tác post bài, like, comment, share và làm quen với những từ ngữ status, messenger… thì Nguyễn Hồng Hưng mặt vuông, tóc ngắn, mặc bộ đồ nâu dân dã như một tá điền đến đón Quang đi. Ít tuổi hơn Quang và tôi, Hồng Hưng gọi chúng tôi là huynh. Mộc mạc, dung dị mà tài hoa, Hồng Hưng đã vẽ cho Quang mấy bức chân dung màu tuyệt đẹp. Nét đẹp của thần thái. Nét đẹp của ánh sáng trí tuệ và tài năng.
Ông hoạ sĩ dân Hà Nội nhưng luôn mộc mạc quần nâu, áo vải quê mùa Nguyễn Hồng Hưng đưa ông bạn Trần Huy Quang của tôi đi nhưng ngay tối hôm đó vào FB, tôi nhận được tin nhắn của Quang hẹn sáng mai đến nhà Hồng Hưng đón Quang. Vậy là từ nay tôi và Quang có thêm phương tiện tin nhắn FB để đến với nhau.
Xin trích mấy mẩu tin nhắn vui vẻ thời kì đầu Quang có FB và tin nhắn quặn đau cuối cùng của Quang.
Ngày 10 tháng Bảy, 2016, Quang nhắn: Đọc mấy đoạn hồi kí Lời ai điếu của Lê Phú Khải trên mạng, Q rất muốn có cả tập để đọc một mạch. T gần gũi với Khải kiếm cho Q tập hồi kí của Khải.
Cần đọc liền mạch hồi kí của nhà báo, nhà văn Lê Phú Khải, Quang hỏi tôi vì có lần tôi đã dẫn Khải đến ngồi với Quang trên gác nhà 56 Bà Triệu, Hà Nội. Chuyện trò với tôi, Quang thường xưng “mình” nhưng nhắn tin điện thoại, nhắn tin FB, Quang đều xưng tên, Quang và Trọng, hoặc Q và T.
Tôi nhắn lại cho Quang: Nơi xuất bản hồi kí của Khải ở bên Mỹ chưa gửi sách cho Khải. Chỉ có sách in lậu ở Việt Nam từ bản thảo chưa biên tập, nhiều lỗi chính tả và lỗi đánh máy. Sách xuất bản ở Mỹ hơn 700 trang. Sách lậu, in nguyên văn bản thảo nhưng co chữ nhỏ, chỉ hơn 400 trang, chữ nhỏ dày đặc, khó đọc. Anh đọc được sách in lậu thì đợi có người ra Hà Nội, tôi sẽ gửi sách cho anh.
Quang nhắn lại ngay: Ăn xin không dám đòi xôi gấc. Thậm chí cho Q đọc trên email cũng được. T gửi cho Q tập sách in ở VN quá tốt rồi. Đa tạ Trọng.
Có khởi đầu thì có kết thúc. Không ngờ trang FB Trần Huy Quang lại kết thúc quá sớm, quá đột ngột và quá buồn.
Ngày 3 tháng Mười Hai, năm 2022, tôi nhắn tin xin Quang số điện thoại của một bạn văn. Đọc tin nhắn trả lời của Quang, tôi lặng người khi thấy sau số điện thoại Quang cung cấp cho tôi là dòng chữ: Q bị u phổi rồi, đang điều trị ở bệnh viện. He he đến lúc giã từ vũ khí rồi.
U phổi là bệnh nguy nan nhưng Quang mới bị, phát hiện sớm và sống tích cực, không ngã lòng thì còn chữa trị được. Tôi nhắn tin động viên Quang. Quang nhắn lại: Cảm ơn Trọng. Thọ rồi có tiếc gì đâu. Vẫn vui vẻ. Đáng lí đi du lịch chuyến cho sướng nhưng hiện phải chữa sao nuốt không vào.
Quang bảo vẫn vui vẻ nhưng lại nhắn cho tôi như một lời lưu luyến từ biệt: Quí mến Trọng lắm. Ít gặp nhưng Trọng là người Q âm thầm kính trọng.
Dốc lòng ra nói lời tốt đẹp cho nhau là lời li biệt đấy, là Quang buông xuôi rồi. Tôi liền nhớ đến thang thuốc đưa nhà thơ Phan Lữ vượt qua cái chết khi thầy thuốc đã buông xuôi. Có lần từ khá lâu rồi, Phan Lữ kể rằng ở tuổi gần bảy mươi, ông bị ung thư bàng quang. Bệnh viện chữa trị cho ông đã chịu thua, trả ông về nhà chờ chết. Nhờ có người mách cho ông thang thuốc Nam đơn giản mà ông hết bệnh. Nhờ vậy tôi đã được dự lễ mừng thượng thọ tuổi bảy mươi, rồi tuổi tám mươi của ông. Đến nay ở tuổi gần chín mươi, ông vẫn sống khoẻ, vẫn tung tăng Sài Gòn, Quảng Nam, Hà Nội. Tôi lại nhắn tin FB liên lạc với Phan Lữ và nhà thơ đã ghi cho tôi đơn thuốc giúp ông vượt qua bệnh hiểm ung thư.
Ngày 12 tháng Mười Hai năm 2022 tôi nhắn tin cho Quang: Nhà thơ Phan Lữ cháu Phan Khôi, sinh năm 1937. Năm 2003, ông bị ung thư bàng quang. Bệnh viện đã trả ông về nhà chờ chết. Ông không chết mà sống khoẻ đến nay, nhờ có người mách cho bài thuốc Nam chỉ có hai vị: Bạch hoa xà thiệt thảo 100 g và bán liên chỉ 50 g mua ở cửa hàng thuốc Bắc. Sắc hai lần trong siêu đất. Mỗi lần một lít nước sắc còn nửa lít. Hoà chung nước thuốc hai lần sắc, uống dần trong ngày. Ông Phan Lữ uống thuốc hơn hai tháng, hết bệnh. Ông bảo rằng thực tế cho thấy những người bị ung thư tiền liệt tuyến, đại tràng, gan, phổi, dạ dày đã được chữa lành bằng thang thuốc này.
Bốn ngày sau, ngày 16 tháng Mười Hai, 2022, tôi nhận được tin nhắn từ nickname Trần Huy Quang nhưng người nhắn tin không phải là Quang và chỉ vẻn vẹn có mấy chữ ngắn ngủi: Bố cháu không kịp uống thuốc rồi! Đúng hôm đó, các báo đồng loạt đưa tin nhà văn Trần Huy Quang qua đời hồi 17 giờ 40 chiều 15.12.2022 ở Hà Nội.
Bố cháu không kịp uống thuốc rồi và tôi không kịp được gặp Quang thêm một lần nào nữa.
(Xem phần 1, phần 2, toàn bài trong bản PDF)
© Phạm Đình Trọng và Pro&Contra
Phạm Đình Trọng – Linh Nghiệm của cuộc đời (phần 2)
5. Mảnh vườn sưa ở làng biển Kẻ Mơ
Cuối năm khi vòm sấu cổ thụ trong bức tường cạnh cổng toà nhà 17 phố Lý Nam Đế, Hà Nội xào xạc hơi may thì vòm sấu ấy cũng xào xạc trong lòng tôi, gọi tôi về với nỗi nhớ hơi may Hà Nội. Hơn chục năm nay, cuối năm nào từ cái nắng chang chang của Sài Gòn đang giữa mùa khô tôi cũng tìm về Hà Nội đang xao xác hơi may.
Tôi đã có nhiều năm bầu bạn gần gũi với vòm sấu Hà Nội và vòm sấu Hà Nội đã lặng lẽ toả bóng vào hồn tôi. Là lính bảo đảm thông tin chỉ huy cho Bộ Tổng Tư lệnh, tôi đã ở hơn ba năm trong toà nhà Pháp xây từ đầu thế kỉ 20 trong thành cổ Cột cờ Hà Nội. Đường trong thành cổ ra cổng Cửa Đông, một bên hàng xà cừ lực lưỡng có tuổi đời cả trăm năm, một bên có hàng sấu non. Đi trên đường, tán lá sấu ngay trong tầm tay tôi với lên. Ngay trước cổng Cửa Nam thành cổ là hàng sấu trên hè phố Trần Phú, nơi chúng tôi vẫn đi về dưới tán sấu khi ra vào cổng Cửa Nam. Làm báo binh chủng thông tin, tôi đã cùng cơ quan chính trị binh chủng sơ tán đến nhiều nơi trên mảnh đất rợp bóng sấu, bóng xà cừ, bóng cơm nguội, bóng sưa… Những năm tháng sống ở phố Phan Huy Chú, phố Lý Thường Kiệt, ở Kim Mã, ở Hào Nam đã qua lâu nhưng đến nay vòm sấu phố Phan Huy Chú, phố Lý Thường Kiệt vẫn lao xao trong tâm tưởng tôi. Năm 1976, được Tổng cục Chính trị tập trung về lớp nhà văn quân đội ngay sau cuộc chiến tranh Nam Bắc, từ đoàn an dưỡng 235 ở Bình Xuyên, Vĩnh Phú dành cho thương bệnh binh chiến tranh từ mặt trận Tây Nguyên ra, tôi lại trở về Hà Nội. Năm đầu, hơn hai mươi nhà văn lính từ các mặt trận về Hà Nội phải ở trong dân. Tôi cùng Chu Lai từ Đông Nam Bộ ra ở nhà cụ Ban làng Khương Hạ, xã Khương Đình, ngoại thành. Bờ ao cạnh nhà tôi ở cũng có vòm xanh dày dặn và bền bỉ của sấu.
Và vòm sấu gắn bó, thân thiết với tôi nhất là vòm sấu bên trong tường bao và cạnh cổng toà nhà 17 Lý Nam Đế, phường Hàng Mã, quận Hoàn Kiếm, nơi tôi ở lâu nhất. Đã thuộc, đã nhớ những hàng sấu trên hè phố Hà Nội và cả những cây sấu trong vườn, bên bờ ao ngoại thành, tôi có thể bảo đảm chắc chắn rằng cây sấu thân thiết với tôi nhất nhưng người Hà Nội ít biết đến nhất vì cây ở sau bức tường, sau cổng toà nhà Điện ảnh Quân đội, 17 Lý Nam Đế, là cây sấu vâm váp, sức vóc, gốc đồ sộ, vòm lá sum suê nhất Hà Nội, cây sấu toả bóng bền bỉ nhất trong hồn tôi. Năm nào vòm sấu ấy cũng gọi tôi về với hơi may Hà Nội, với thăm thẳm hồn Hà Nội.
Về Hà Nội tôi đều ở khách sạn nhỏ, khuất nẻo, xa trung tâm nhưng gần bến xe buýt và người đầu tiên tôi liên lạc là Trần Huy Quang. Khi tôi lặng lẽ đến Quang, đôi khi gọi điện thoại. Nhắc đến điện thoại, tôi lại phải có thêm đôi dòng. Vì những bài viết thẳng thắn của tôi về hiện thực đất nước và hiện thực trong lòng người đăng trên những trang mạng lề dân, tôi trở thành một trong những nỗi bận tâm giám sát của cơ quan cảnh sát văn hoá. Số điện thoại thường dùng của tôi không còn là sở hữu của riêng tôi và sóng điện thoại tôi phát đi đã chỉ cho nơi giám sát biết sự di chuyển và mối quan hệ xã hội của tôi, gây ra những phiền toái, rắc rối cho tôi nên mỗi cuộc hành trình tôi đều phải thay máy, thay số điện thoại nhưng tôi cũng hạn chế cao nhất việc liên lạc điện thoại. Biết tôi ra Hà Nội, Quang đều lặng lẽ chạy xe máy đến tôi. Lặng lẽ vì biết tôi có tên trong black list của an ninh, bị giám sát trong các mối quan hệ xã hội, Quang không hẹn hò gì, cứ lặng lẽ đến.

Có lần Quang chở tôi đến nhà cặp đôi trí tuệ và tài năng, vợ chồng nhà văn Hoàng Quốc Hải và nhà thơ Nguyễn Thị Hồng ở phố Pháo Đài Láng. Những pho tiểu thuyết lịch sử ngàn trang của Hoàng Quốc Hải là những trang sách quí về một triều đại đầy biến động và một thời đại hiển hách, huy hoàng nhất trong lịch sử Việt Nam. Những vần thơ đằm thắm yêu thương của Nguyễn Thị Hồng “Cuộc đời thì ngắn mà tình ta dài / Làm sao sống được khi mình lẻ loi” là những vần thơ đẹp về tâm hồn rộng lớn yêu thương làm nên sức bền của con người Việt Nam. Đồng cảm với những bài viết của tôi trên mạng xã hội lề dân, anh Hải dành cho tôi sự quan tâm và tình cảm quí mến, ân cần, thân thiết, còn chị Hồng chăm chút cho tôi và Quang được ăn bữa cơm đậm đà hương vị kinh kì Hà Nội.
Có lần Quang đến chở tôi trên xe máy tà tà lượn vòng quanh Hồ Tây, “bước đi một bước, giây giây lại dừng”, ngắm nhìn sương khói bảng lảng mặt hồ và chụp mấy tấm ảnh. Quang và tôi đã chụp ảnh dưới tán phượng vĩ từ trên cao la đà soi bóng xuống mặt hồ ở Đường Thanh Niên. Chụp ảnh bên gốc cau vua cao vút ven hồ phố Nguyễn Đình Thi. Xế trưa tạt vào nhà hàng nhỏ ở phố Yên Hoa bên hồ, thong thả ăn trưa và lắng lại trong không gian huyền thoại phủ Tây Hồ. Vài năm sau này ở tuổi gần tám mươi, Quang thay xe máy bằng xe buýt. Đi xe buýt đến tôi nhưng lần nào Quang cũng bảo tôi ở Hà Nội cần đi đâu đến lấy xe máy của Quang mà đi. Mạng xe buýt Hà Nội trải rộng khắp, đi lại khá thuận tiện và an toàn, tôi chưa cần đến xe máy của Quang.
Tháng Mười Hai năm 2018 về Hà Nội, tôi phôn cho Quang thì Quang bảo đang ở quê Kẻ Mơ, Quỳnh Lưu. Quang giục tôi về Kẻ Mơ với Quang. Quang nhắn tin chỉ đường cho tôi: Ra bến xe Nước Ngầm. Lên tầng hai. Tìm bàn bán vé xe Khoa Hoa. Mua vé đi chuyến 1 giờ 30 chiều. Xe chạy về tận cổng nhà Quang luôn. Không tìm thấy bàn bán vé xe Khoa Hoa thì điện thoại cho số 0969811475 sẽ có người mang vé xe đến.
Theo chỉ dẫn của Quang, chập tối 22.12.2018, đèn điện đã sáng đường làng Kẻ Mơ, tôi bước xuống ô tô Khoa Hoa thấy Quang đứng trước cổng chờ tôi. Vào nhà nhận ra ngay mùi thơm cá biển. Trên bàn nhỏ, đĩa cá biển rán, tô canh chua cá biển đang bốc hơi, toả ra hương vị hấp dẫn, ấm cúng. Từ hôm ấy, bữa cơm nào của chúng tôi cùng với mùi thơm rượu quê là vị thơm ngon, đậm đà của cá biển do chị gái Quang mang đến. Người chị mà ngày Quang lên đường nhập ngũ, chị khóc, nắm tay Quang và dặn: Cậu ra trận đừng chết nhá, phải sống mà về với chị. Nay chị ngồi trước cửa nhà bên đường làng, bán cá biển.

Khu đất gần ngàn mét vuông cạnh đường làng, tường xây bao quanh và hai cổng sắt. Một cổng mở ra đường làng thường xuyên khép kín. Một cổng mở ra lối ngõ láng xi măng dẫn ra đường làng luôn mở rộng và Quang thường dẫn tôi đi về qua cổng này. Toà nhà lớn trên nền cao, cửa luôn đóng im lìm gìn giữ một không gian thăm thẳm và tĩnh lặng của quá khứ, nơi thờ phụng tổ tiên. Trước nhà lớn, qua mảnh sân nhỏ là giếng nước và mảnh vườn hẹp. Cây lộc vừng bên cây ổi. Căn nhà nhỏ vuông góc với ngôi nhà lớn, cửa mở ra mảnh sân ngôi nhà lớn, lưng nhà quay ra cổng bên đường làng. Trong nhà chỉ có một chiếc giường đôi. Bàn làm việc bên cửa sổ nhìn ra cây nhãn ngoài đầu nhà. Bàn ăn và kệ bếp núc. Những ngày ở với Quang, tôi ngủ trên giường còn Quang ngủ trên tấm nệm dày ngả ra giữa nền nhà. Ngoài đầu căn nhà nhỏ, bên cửa sổ có bộ bàn ghế xi măng dưới bóng cây nhãn nhìn ra mảnh vườn trồng hơn hai chục cây sưa đã cao hơn hai mét.
Đang tiết đông chí, rét đậm nhưng ngọn gió từ biển Quỳnh Lưu hào hển thổi vào không tê tái, giá buốt như ngọn gió bấc ở vùng núi đá Cao Bằng, Bắc Cạn. Dù vậy, Quang vẫn lót hai miếng nệm trên ghế xi măng. Sáng nào chúng tôi cũng ngồi bên chiếc bàn xi măng dưới tán nhãn với hai li cà phê nóng nhìn ra phía mảnh vườn trồng sưa đón mặt trời lên từ biển. Buổi sáng đầu tiên, ngoài biển mặt trời bị vùi trong sương mù, màu xanh tán lá sưa cũng chìm nổi trong màn sương bảng lảng. Những buổi sáng còn lại của tôi ở Kẻ Mơ đều có nắng rực rỡ. Lá sưa rung rinh vẫy nắng. Nắng lọc qua tán nhãn, lung linh trên tóc, trên vai chúng tôi. Một buổi sáng lung linh nắng ấm tôi hỏi Quang về truyện ngắn Linh nghiệm gây tai hoạ cho Quang nhưng cũng dựng lên sừng sững tầm vóc tư tướng và tư thế nhà văn của Trần Huy Quang.
Quang bảo: Hồi mình mới vào lính đóng quân ở Hà Tĩnh phải ở nhờ nhà dân. Mình ở nhà thầy giáo làng. Gầm giường mình ngủ, chất đống những cây mía dóng dài mập mạp chỉ nhìn đã thấy ngọt lự. Trưa mùa hè bọn mình đi tập về, thấy quần áo lính lấm lem đất cát và ướt đẫm mồ hôi, thầy giáo ân cần bảo: Các chú lấy mía ăn cho đỡ mệt. Thầy kể về nguồn gốc đống mía để bọn mình yên tâm cứ ăn vô tư. Thầy cắm mấy ngọn mía trên vạt đất hoang chỉ để có mía cho hai đứa trẻ con thầy ăn. Không ngờ mía hợp đất, tốt quá, chật cây lớn, từ gốc mía cả chùm mầm mập mạp lại thúc lên. Từ một khóm mía lan ra cả vạt mía xanh um. Hai đứa trẻ con thầy ăn mía mãi đã chán, thầy có dóc mía, tiện đốt sẵn chúng cũng ít đụng đến. Mía ăn không hết, để lâu đường mía lên men chua loét phải bỏ đi. Đang sức ăn, sức xốc vác, cơm lính chưa đủ no. Trưa, chiều có thêm tấm mía không phải chỉ mát lòng mà còn chắc dạ.
Nhưng rồi gầm giường bỗng trống trơn, chẳng còn cây mía nào. Mình hỏi, thầy giáo bảo: Hợp tác xã thu hồi đất. Đất làng giờ thành đất hợp tác xã, đất tập thể, dân không được đụng đến. Lại hỏi: Hợp tác thu đất làm gì? Chẳng làm gì cả. Đất lại bỏ hoang thôi. Không cho dân trồng trọt, thu hoạch trên đất đó vì làm như vậy là dân lại nuôi mầm mống tư hữu, trở thành tư sản, không còn chủ nghĩa xã hội nữa!
Lần đầu tiên mình thấy sự vô lí của chủ nghĩa xã hội từ việc ông giáo làng không được trồng mía trên mảnh đất hoang. Sau này đọc sách mình lại gặp được một nhận định rằng triết học Mác coi con người là chủ thể xã hội nhưng lại coi hạnh phúc của con người là đấu tranh. Con người phải lao vào đấu tranh tiêu diệt con người khác biệt giai cấp để xây dựng chủ nghĩa xã hội không còn giai cấp tư hữu mới là hạnh phúc. Con người không tư hữu chỉ ở thời bầy đàn nguyên thuỷ. Qua thời bầy đàn nguyên thuỷ đã hàng ngàn năm, con người đã tách ra thành những cá thể tư hữu. Làm gì còn xã hội không có tư hữu nữa. Xã hội không có tư hữu chỉ là xã hội mông muội, là ảo tưởng, là hư vô. Đẩy con người vào bạo lực đấu tranh đẫm máu để đi đến xã hội hư vô, chủ nghĩa xã hội biến con người thành công cụ và biến hiện thực thành hư vô. Mình rất ấn tượng với từ hư vô nhưng hơi tiếc là không ghi lại đoạn văn nên không nhớ nhận định rất đúng chủ nghĩa xã hội hư vô đã biến con người thành công cụ ở sách nào. Nhưng suy cho cùng cần gì phải nhớ ở sách nào. Sách ghi lại sự phát hiện ra chân lí của cuộc sống. Đã là chân lí thì tồn tại mãi mãi trong trang sách cuộc đời và mình đã đọc được điều đó không phải chỉ ở trang sách giấy trắng mà còn ở cả trang sách cuộc đời.
Như chạm vào nỗi niềm dồn nén, nhấp li cà phê đã nguội, Quang lại bị mạch chìm suy tư cuốn đi: Chủ nghĩa xã hội đúng là hư vô. Mảnh đất cho màu xanh, cho trái ngọt là hiện thực. Mảnh đất hoang là hư vô. Người biết lao động sáng tạo là hiện thực. Kẻ ngu dốt chỉ ăn bám vào sự lao động sáng tạo của người khác là hư vô. Mình lại nhớ đến con người trung thực, tài năng Vua Lốp Nguyễn Văn Chẩn bị gạt ra khỏi vị trí lao động sáng tạo, không được làm ra những chiếc lốp bền và rẻ mang thương hiệu Nguyễn Văn Chẩn để cho những kẻ ngu dốt tham lam và giả dối làm giả sản phẩm Nguyễn Văn Chẩn tung ra chiếm lĩnh thị trường, thu lợi bất chính. Đấu tranh tiêu diệt tư hữu chính đáng để tạo ra tư hữu bất chính, đó là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội vừa bất chính, vừa hư vô đã tạo ra đầy rẫy nạn nhân Nguyễn Văn Chẩn. Lĩnh vực nào cũng có những nạn nhân Nguyễn Văn Chẩn còn bi thảm hơn nhiều Nguyễn Văn Chẩn Vua Lốp.
Quang lặng đi khá lâu rồi chợt thốt lên: Mình và Trọng đều là lính đi qua cuộc chiến tranh khủng khiếp mà đến giờ nghĩ lại vẫn không hiểu vì sao mình còn sống trở về. Dù may mắn sống sót nhưng cũng thật bất hạnh khi bọn mình phải ném quãng đời quí giá nhất chiến đấu, hi sinh cho xã hội biến hiện thực thành hư vô, xã hội đồ giả, đồ đểu.
Xã hội bị một lí tưởng hư vô dẫn dắt làm cho tài nguyên giầu có của đất nước, tài năng sáng tạo vô tận của người dân cũng trở thành hư vô cứ ám ảnh Quang. Quang bảo trong nỗi ám ảnh đó dần hình thành lên bóng dáng nhân vật, hình thành đường dây dẫn dắt của truyện ngắn Linh nghiệm và Quang viết rất nhanh, chỉ một đêm.
Nhớ đến Linh nghiệm, nhớ đến những dòng dựng nhân vật chính trong Linh nghiệm không thể không nhận ra nhân vật có thật trong cuộc đời mà tên tuổi, hình ảnh và cuộc đời được nhắc tới hàng ngày trong đời sống xã hội, được thần thánh hoá thành giáo chủ linh thiêng trong đời sống của một tôn giáo:
“Hinh là con trai thứ ba trong một gia đình nông dân, không nghèo nhưng cũng chẳng giàu có gì lắm. Cha anh ta có đỗ đạt, đã từng làm quan nhưng tính khí thất thường, lòng đầy ham hố, quan trên không mặn mà gì nên đã bỏ quan, khi đi dạy học ở chốn kinh kỳ, khi ngồi bốc thuốc ở vùng sơn cước. Hinh thừa hưởng ở dòng họ và khí chất của vùng chôn rau cắt rốn cái nết cơ bản cần cho kẻ có hoài bão tham chính là tính đa mưu túc kế, lòng dạ thật không bao giờ lộ ra mặt, bạn bè cùng lứa không ai dám kết làm bằng hữu. Hinh sáng dạ, lại có chí, học đâu biết đó, hai mươi tuổi làm thơ chữ Hán, đọc Rút-xô, Mông-tét-ski-ơ bằng nguyên bản, nhưng Hinh chán học, chỉ nhăm nhăm một dạ xuất ngoại. Đạo học không có đường tắt, mà lập thân bằng con đường học vấn thì mù mịt, xa vời quá. Bằng văn chương thì chỉ khi thế cùng lực tận, bất đắc dĩ mà thôi.
Nhưng Hinh đâu phải là người dại dột, không bao giờ để phí chí khí, sức lực vào chuyện đàn bà. Vớ vẩn. Chiếm mười trái tim đàn bà đâu có khó nhưng một trái tim nhân loại thì phải vượt trùng dương. Hinh ngước cái nhìn mong đợi lên bầu trời, hoài vọng bóng dáng một con tàu, tìm kiếm một phép thần thông, mong đợi một dấu vết của cõi Thiện hoặc hơi hướng của miền Cực lạc để đưa về cho chúng sinh.” (Linh nghiệm)
Bằng ngôn ngữ suồng sã của tiểu thuyết hiện đại chứ không phải ngôn ngữ thành kính suy tôn, tụng ca của sử thi, của anh hùng ca mà hàng ngày vẫn tưng bừng rộn rã trên hệ thống truyền thông, người viết Linh nghiệm lạnh lùng cúi xuống nhìn nhân vật chứ không phải con mắt đắm đuối ngước lên thần thánh hoá nhân vật như những truyện, những thơ anh hùng ca của văn chương Việt Nam từ khi văn nghệ sĩ là chiến sĩ của đảng trên mặt văn hoá nghệ thuật.
Đọc Linh nghiệm kể chuyện Hinh, tôi cứ liên tưởng tới Số Đỏ kể chuyện Xuân Tóc Đỏ. Vũ Trọng Phụng bỗ bã, thân tình, bỡn cợt với Xuân Tóc Đỏ thì Trần Huy Quang cũng mỉm cười, vỗ vai, suồng sã với Hinh. Hinh mê sảng đi “tìm cái này” mà không biết cái này là cái gì cũng như Xuân Tóc Đỏ đầy hứng khởi đọc vè rao bán thuốc dạo mà không biết là thuốc dỏm hay thuốc thật. Xuân Tóc Đỏ vật vờ bụi đời, lang thang vỉa hè, tứ cố vô thân mà gặp vận may thành niềm tự hào dân tộc, thành danh dự quốc gia. Hinh thì chán học “chỉ nhăm nhăm một dạ xuất ngoại”. Học hành lởm khởm, dở dang, dù làm thơ chữ Hán cũng chỉ bằng vốn Nho học nửa vời, đọc Mông tét ki ơ bằng nguyên bản cũng chỉ với vốn chữ Tây học mót. Thân cô thế khó mà vô tình có được đám đông đi theo, vô tình có được thiên hạ.
Từ hình ảnh đám đông đi theo Hinh tìm kiếm niềm hi vọng mơ hồ không thể không nghĩ đến một đám đông khác đông hơn gấp triệu lần bị dẫn dắt theo đuổi lí tưởng cũng mơ hồ, hư vô như cái không có thật Hinh đang miệt mài tìm kiếm: “Cái đám đông ấy cứ như dòng nước trong lòng sông, trôi đi chứ không cạn. Người đến trước thất vọng ra về trước, người đến sau thất vọng ra về sau. ‘Tìm cái này’ là cái gì thì không ai biết, nhưng cứ hy vọng có chút no ấm mờ mờ phía trước cũng đã hấp dẫn lắm, để họ trở thành một dòng nước.” (Linh nghiệm).
Đám đông theo Hinh trong Linh nghiệm là đám đông tự nguyện, khi tỉnh ra còn được tự quyết định số phận, dừng lại và tách ra. Còn đám đông trong đời thật bị tuyên truyền lừa dối và bạo lực áp đặt dẫn dắt đi theo lí tưởng mơ hồ thì bị trói chặt số phận, trói chặt cả cuộc đời vào cái hư vô! Người đọc càng cay đắng, đau xót nhận ra rằng đám đông trong Linh nghiệm chỉ uổng phí mất mát một đoạn đời, một thế hệ. Còn đám đông trong đời thật thì ê chề, đau đớn uổng phí cả cuộc đời, tủi nhục, mất mát nhiều thế hệ!
Dạo ấy Quang chưa biết đến máy vi tính để thẳng lưng ngồi gõ bàn phím. Phải cắm mặt vào trang giấy mà lia bút bi. Một đêm viết xong Linh nghiệm rồi cứ để trong tập bản thảo và quên đi. Mấy tháng sau, một chiều khoảng gần cuối tháng Sáu, năm 1992 mở cặp lưu bản thảo, chợt thấy, Quang liền mang đến trưởng ban văn xuôi Ngô Ngọc Bội, một người xuề xoà, mát tính. Không hi vọng được chấp nhận nhưng Quang trình Linh nghiệm ra để thăm dò, lắng nghe ý kiến, thái độ trong nội bộ báo. Ngồi sau chiếc bàn bề bộn bản thảo, Ngô Ngọc Bội cầm Linh nghiệm lướt nhìn qua rồi ngước nhìn Quang và bảo: Truyện của ông là ông đã đọc kĩ rồi, tôi khỏi đọc. Ông đưa trực tiếp cho Thỉnh duyệt sớm, kịp đi vào số tuần sau.
Quang vào phòng Tổng Biên tập, thấy Thỉnh đang thu giấy tờ nhét vào cặp sắp rời khỏi phòng. Cũng như trưởng ban văn xuôi, Hữu Thỉnh chỉ thoáng nhìn tên Quang trên bản thảo rồi nhìn thẳng vào mặt Quang còn chăm chú, nồng nàn và thắm thiết hơn cái nhìn của Ngô Ngọc Bội. Ngô Ngọc Bội nhìn Quang là cái nhìn thường tình với người đối thoại. Thỉnh nhìn Quang là cái nhìn vuốt ve, trìu mến của diễn viên đang nhập vai diễn cần biểu lộ tình cảm. Cái nhìn ấy như tiếng cửa miệng “tuyệt vời” mà Thỉnh vẫn thường vồ vập reo lên trong những cuộc gặp gỡ. Thỉnh kí vào bản thảo và bảo Quang đưa cho Hoàng Minh Châu, Phó Tổng Biên tập đang trực lãnh đạo báo đọc duyệt. Có chữ kí của Thỉnh thì cũng rất nhanh có chữ kí duyệt của Hoàng Minh Châu. Quang không ngờ Linh nghiệm được dễ dàng chấp nhận và đi qua cửa ải biên tập nhẹ nhàng, nhanh chóng như vậy để xuất hiện trên báo Văn Nghệ số 27 ngày 4 tháng bảy, năm 1992.
Trong khi từ Tổng Bí thư đảng cộng sản cầm quyền đến Hội đồng Lí luận và Ban Tuyên giáo Trung ương đều lên gân kiên trì học thuyết Mác Lê, kiên trì chủ nghĩa xã hội, trong khi cả bộ máy truyền thông khổng lồ đang ầm ầm chạy hết công suất thần thánh hoá con người, rước chủ nghĩa Mác Lê, rước chủ nghĩa xã hội về để cả nước rì rầm tụng niệm, cả nước sì sụp thờ cúng con người được thần thánh hoá thì Linh nghiệm xuất hiện trên tờ báo của Hội Nhà văn đã trở thành một vụ nổ núi lửa, một trận động đất chính trị kinh hoàng.
Lúc ấy dư luận xã hội đang ồn ào về tập thơ Chân dung nhà văn của Xuân Sách và Giám đốc NXB Văn học, nhà thơ Lữ Huy Nguyên, duyệt cho xuất bản tập thơ đang bị hành. Vụ Linh nghiệm nổ ra làm chìm nghỉm vụ Chân dung nhà văn và Lữ Huy Nguyên nhẹ nhàng thoát nạn, đủ biết vụ Linh nghiệm nghiêm trọng như thế nào.
Nhưng tiếng la hốt hoảng đầu tiên về núi lửa Linh nghiệm không phải cất lên từ các cung đình văn chương, báo chí, không cất lên từ các giáo sư, tiến sĩ trong bụng đầy thuật ngữ sáo rỗng về lí luận phê bình văn học và trong tư duy lổn nhổn thuật ngữ khô xác chính trị Mác Lê, luôn nghiêm trọng với trách nhiệm gác cổng toà nhà văn học xã hội chủ nghĩa, cũng không cất lên từ toà nhà thâm nghiêm của cơ quan cảnh sát văn hoá đầy quyền uy và bí hiểm mà cất lên từ viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, nơi làm công việc giữ gìn trên nhung đỏ, trong tủ kính hòn đá mang về từ hang Pắc Bó, Cao Bằng, nơi lưu giữ câu chuyện thần thoại về một viên gạch sản xuất ở nước Pháp từ đầu thế kỉ 20, viên gạch nung nóng bọc giấy báo ở nhà số 9, ngõ Compoint, quận 17, Paris.
Núi lửa Linh nghiệm phun trào ở toà nhà số 17 phố Trần Quốc Toản, Hà Nội nhưng sức nóng lại ngùn ngụt bốc lên ở Nghệ An. Rầm rộ những công văn của các cơ quan đảng, chính quyền và tổ chức chính trị từ huyện tới tỉnh Nghệ An tới tấp gửi về các cơ quan trung ương đòi xử lí thích đáng tác giả và báo Văn Nghệ đã hỗn láo xỉ nhục người dân Xô-Viết Nghệ Tĩnh, đã xúc phạm nặng nề mảnh đất quê hương cách mạng Nghệ An. Nếu trung ương không xử thì Nghệ An sẽ có cách xử nghiêm khắc, thoả đáng.
Qua tiếng la hốt hoảng của viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, qua những công văn đằng đằng sát khí của các cơ quan quyền lực và tổ chức chính trị Nghệ An cũng thấy được núi lửa Linh nghiệm đã đe doạ nhà nước xã hội chủ nghĩa, đã làm mất thiêng vị thánh của tôn giáo Mác Lê như thế nào. Nhưng cũng may thời thế đã khác.
Giống như vụ Nhân Văn – Giai Phẩm năm 1956, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán và hàng loạt nhà tư tưởng, nhà văn hoá Việt Nam bị treo bút, Trần Huy Quang cũng bị treo bút. Trần Dần, Lê Đạt… bị treo bút trong âm thầm, cô đơn, buồn thảm, kéo dài gần nửa thế kỉ. Trần Huy Quang bị treo bút trong lặng lẽ nhưng không cô đơn.
Một buổi sáng tôi đang ngồi với Quang bên li cà phê dưới tán nhãn đầu nhà Quang ở Kẻ Mơ thì một thầy giáo dạy văn trường Đại học Vinh đi ô tô đến đón Quang. Hôm đó tôi được ăn theo Quang trong chuyến đi chơi thành phố Vinh. Thầy giáo đó đưa Quang dạo quanh thành phố Vinh rồi ra ngoại thành, đến nhà hàng bên bờ sông Lam vắng lặng, yên tĩnh. Ở đây có thêm mấy nhà văn, nhà báo Nghệ An đến với Quang. Giữa sự quan tâm, vui mừng, hồ hởi dành cho Quang của những người làm công việc chữ nghĩa ở mảnh đất học Nghệ An, Quang vẫn lặng lẽ. Khi viết bài này, ngắm lại những tấm ảnh chụp Quang hôm đó, tôi mới nhận ra nỗi buồn sâu kín trong đôi mắt, trên gương mặt Quang.
Từ truyện ngắn đầu tiên của Quang được công bố ở tạp chí Văn Nghệ Quân Đội năm 1967 đến khi Quang dừng viết năm 2022, hơn nửa thế kỉ cầm bút Quang đã có hơn hai mươi đầu sách được xuất bản. Trong khi người người tấp nập vét tiền túi ra nộp cho nhà xuất bản để có vài tập thơ ngâm vịnh, vài tập truyện nhạt nhẽo trình cho Hội Nhà văn khi nộp đơn xin vào hội thì hơn hai mươi tập sách của Quang đều được xuất bản theo kế hoạch và tiền đầu tư của nhà xuất bản, không có tập sách nào Quang phải bỏ tiền ra in. Nhưng những tập truyện ngắn Chiếc áo màu lửa, Sự trắc trở đã qua…, những tập kí sự Người làm chứng, Thánh ca Truông Bồn…, những tiểu thuyết Nước mắt đỏ, Ngọn khói, Khúc hoàn lương, Cô gái Đồng Lộc… cũng giống như Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Rừng U Minh của Nguyễn Văn Bổng, Đường trong mây, Họ sống và chiến đấu của Nguyễn Khải…, cũng chỉ là những giọng ca khoẻ khoắn, hùng hồn trong dàn đồng ca về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Những tập sách chỉ thể hiện tài năng của những chiến sĩ xuất sắc trên mặt trận văn hoá văn nghệ của đảng chuyên chính vô sản mà thôi.
Chính Nguyễn Khải, nhà văn nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt hai, năm 2000 cũng nhìn nhận những tác phẩm được giải của ông cũng chỉ là “Văn của một thời. Thời hết thì văn phải chết. Tuyển tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân” (Nguyễn Khải, Đi tìm cái tôi đã mất). Những tập anh hùng ca đồ sộ, cổ vũ, tụng ca con người lao vào bão táp cách mạng vô sản và chiến tranh giai cấp vì chủ nghĩa xã hội hư vô sẽ thành giấy lộn khi chủ nghĩa xã hội hư vô ở Việt Nam không còn tồn tại như từ năm 1991 đã vĩnh viễn không còn tồn tại Liên Bang Xô-Viết, thành trì của chủ nghĩa xã hội thế giới.
Quang buồn về điều đó ư?
Quang đâu chỉ có những tập sách “văn của một thời”. Mọi sự việc, mọi biến động sẽ qua đi nhưng những tư tưởng giúp con người nhận thức về mình và thế giới thì sẽ còn mãi. Truyện ngắn Linh nghiệm của Quang thức tỉnh con người đang u mê đi tìm cái hư vô, thức tỉnh con người bị tước đoạt những giá trị làm người trở về hiện thực, giành lấy những giá trị đích thực của cuộc đời thì sẽ còn mãi trong văn học sử Việt Nam và trong trang sử đất nước Việt Nam gian nan đi tới giá trị đích thực của xã hội loài người, xã hội dân chủ, văn minh. Linh nghiệm là tư tưởng, là tư cách nhà văn của Trần Huy Quang sẽ còn mãi với thời gian. Cả ngàn người vẫn vênh váo xưng tụng là nhà văn Việt Nam hôm nay, mấy ai có được tư cách nhà văn như vậy!
Chỉ có điều sau này khi đưa tin Quang mất, các báo chỉ nhắc đến, chỉ tán tụng, đánh giá cao những tập sách một thời của Quang mà không báo nào có một chữ, một dòng nhắc đến Linh nghiệm, không báo nào chỉ ra vóc dáng nhà văn Trần Huy Quang lừng lững trong Linh nghiệm.
(Xem phần 1, phần 3, toàn bài trong bản PDF)
© Phạm Đình Trọng và Pro&Contra
Phạm Đình Trọng – Linh Nghiệm của cuộc đời (phần 1)
1. Một mình một cuộc cách mạng
Sự kiện Nhân Văn – Giai Phẩm những năm 1955 – 1956 không phải chỉ là những bài viết đòi tự do dân chủ trên báo Nhân Văn, trên tạp chí Giai Phẩm do nhà văn hoá Nguyễn Hữu Đang tổ chức thực hiện, không chỉ là tiếng nói của những nhà văn, nhạc sĩ mặc áo lính Trần Dần, Tử Phác… từ rừng Việt Bắc về phố Lý Nam Đế, Hà Nội đòi những người làm công việc sáng tạo khoa học, nghệ thuật phải được tự do sáng tạo, thoát li khỏi con người công cụ cúc cung sáng tác theo nhiệm vụ chính trị. Nhân Văn – Giai Phẩm còn là những phát hiện của nhà triết học, nhà tư tưởng tầm vóc thế giới Trần Đức Thảo về những sai trái, tội lỗi, phản con người, phản khoa học của học thuyết Karl Marx, của chủ nghĩa cộng sản, là tiếng nói của những trí thức Dương Đức Hiền, Nguyễn Mạnh Tường… chỉ ra những hạn chế có tính bản chất, có tính lịch sử của đảng cộng sản, đảng của giai cấp cần lao và khẳng định đưa đất nước phát triển giầu mạnh không thể thiếu vai trò dẫn dắt của đội ngũ trí thức đích thực. Nhân Văn – Giai Phẩm là tiếng nói đầu tiên của người dân Việt Nam trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, phủ nhận chủ nghĩa xã hội, phủ nhận sự độc quyền nhà nước, phủ nhận chuyên chính vô sản của đảng cộng sản.
Hơn ba mươi năm sau, truyện ngắn Linh nghiệm của Trần Huy Quang đăng trên báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam, đúng ngày độc lập của nước Mỹ tự do, dân chủ, ngày 4.7.1992 là tiếng nói thứ hai chỉ ra chủ nghĩa xã hội chỉ là ảo tưởng, không có thật, chủ nghĩa cộng sản chỉ là điều hoang tưởng để nói rằng đảng cộng sản kiên trì chủ nghĩa Marx, kiên trì lí tưởng cộng sản chỉ là kiên trì cái hoang tưởng, không có thật. Tiếng nói Nhân Văn – Giai Phẩm nghiêm trang và thẳng thắn là tiếng nói của lí trí khoa học. Linh nghiệm nhẹ nhàng, vui vẻ, bỡn cợt là tiếng nói của nghệ thuật.
Học thuyết chính trị, lí tưởng xã hội của đảng chính trị cầm quyền xác định hướng đi, xác định đích đến của một nhà nước, là bản chất, cốt lõi của một thể chế. Biến động xã hội làm thay đổi học thuyết chính trị, chuyển đổi lí tưởng xã hội là cuộc cách mạng. Nhân Văn – Giai Phẩm đòi thay đổi đường lối của đảng cầm quyền, đòi xoá bỏ sự độc quyền nhà nước của đảng cộng sản đương quyền, đó thực sự là cuộc cách mạng. Nhân Văn – Giai Phẩm không chỉ là một phong trào như từ trước đến nay vẫn nhìn nhận mà thực sự là cuộc cách mạng bất thành của đội ngũ trí thức, nghệ sĩ ưu tú nhất của trí tuệ và tâm hồn Việt Nam.
Với tư cách nhà văn, bằng truyện ngắn Linh nghiệm chỉ hơn hai ngàn từ, hơn một trang báo khổ nhỏ 26 X 42 cm, một mình Trần Huy Quang dõng dạc lên tiếng chỉ ra lí tưởng cộng sản và chủ nghĩa xã hội chỉ là trò lẩm cẩm, là thứ ảo tưởng của kẻ lang thang, lạc loài, tứ cố vô thân.
Với Linh Nghiệm, một mình Trần Huy Quang cũng làm một cuộc cách mạng.
Dù bất thành, cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Nguyễn Thái Học bị dìm trong máu nhưng Nguyễn Thái Học mãi mãi lẫm liệt trong lịch sử Việt Nam. Nhân Văn – Giai Phẩm và Linh nghiệm cũng mãi mãi là trang vàng son trong lịch sử văn học Việt Nam. Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần… và Trần Huy Quang – Linh nghiệm mãi mãi lừng lững khí phách Nguyễn Thái Học trong văn hoá Việt Nam.
Những nghị quyết, những quyết định, những bài viết hèn hạ và độc ác vu khống Nhân Văn – Giai Phẩm, vu khống Linh nghiệm lại như chiếc máy chém, chém đầu Nguyễn Thái Học còn mãi trong bảo tàng lịch sử là bằng chứng ô nhục của tội ác chống lại con người, chống lại chân lí, chống lại sự trung thực, chống lại ánh sáng trí tuệ để duy trì sự giả dối và tăm tối.
2. Lao xao vòm lá sưa
Nhân Văn – Giai Phẩm bị đàn áp. Những người đầu vụ bị cách li với xã hội theo hai cách. Người bị tống lên vách núi đá khắc nghiệt ở độ cao trên một ngàn mét, vào địa ngục trần gian, giam cầm trong hầm đá Cổng Trời, Hà Giang như Nguyễn Hữu Đang. Người bị treo bút và cầm tù vô thời hạn tại nhà, bị khủng bố, xách nhiễu tinh thần, bị bao vây, phong toả đời sống vật chất, phải sống lay lắt, đói khổ, cô đơn như Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Dần… Những người dính dáng gần xa, chỉ là dây mơ rễ má với Nhân Văn – Giai Phẩm cũng bị những cú đòn âm thầm làm cho tan tác, mỗi người trôi dạt về một xó xỉnh tỉnh lẻ. Người bị loại ra khỏi biên chế cơ quan. Người bị loại ra khỏi vị trí đang đảm nhiệm, không được đảm nhận những vị trí có chức danh hành chính. Chỉ được làm những việc sự vụ, lao công. Thân thể chưa bị giam cầm nhưng tên tuổi thì bị giam cầm, bị cách li với xã hội, không được xuất hiện trong đời sống văn hoá.

Dù dính dáng đến Nhân Văn – Giai Phẩm hay không nhưng hoạn nạn Nhân Văn – Giai Phẩm đã gắn kết những nhà văn, nhà thơ cùng vào đời từ cuộc kháng chiến chống Pháp còn bên ngoài nhà tù đến với nhau như những người cùng một nỗi đau, cùng một mất mát, cùng một nỗi bơ vơ, ngơ ngác, hình thành những nhóm bạn văn thân thiết. Nhóm Trần Dần – Lê Đạt – Trần Đĩnh – Nguyễn Khải… Nhóm Nguyễn Xuân Khánh – Bùi Ngọc Tấn – Dương Tường – Phạm Toàn – Mạc Lân – Hứa Văn Định… Nhóm Trần Lê Văn – Vũ Bão – Lê Bầu – Ngô Quân Miện… Rồi từ mọi nẻo, những hồn nhân văn lại tụ về chốn ngàn năm văn vật kinh kì và bằng tài năng quí hiếm vốn có, những nhà văn, nhà thơ hậu Nhân Văn – Giai Phẩm lại tìm được vị trí trong xã hội để đóng góp và thể hiện mình.
Những năm tám mươi thế kỉ hai mươi nhà thơ Ngô Quân Miện là Tổng Biên tập báo Độc Lập, tờ báo của Đảng Dân chủ ra đời năm 1944 trong làn sóng những phong trào vận động cứu nước, một tiếng nói văn hoá và trí tuệ của những trí thức lớn: Dương Đức Hiền, Nghiêm Xuân Yêm, Vũ Đình Hoè, Đỗ Đức Dục, Huỳnh Văn Tiểng, Hoàng Minh Chính, Đặng Thai Mai, Ca Văn Thỉnh, Trần Bửu Kiếm, Tôn Quang Phiệt… Còn nhà văn Vũ Bão là Phó Tổng Biên tập kiêm Trưởng Ban Biên tập báo Điện Ảnh Việt Nam, tờ báo của Bộ Văn hoá – Thông tin.
Tôi may mắn có cái duyên được gặp và có quan hệ thân thiết với Vũ Bão từ thời ông còn lênh đênh trôi dạt, không biên chế, không đồng lương bởi tai nạn Nhân Văn – Giai Phẩm. Tiểu thuyết đầu tay Sắp cưới của ông viết về Cải cách Ruộng đất bị đội quân theo đường lối văn nghệ Diên An, dưới lá cờ lệnh trong tay Tố Hữu chỉ điểm đánh hội đồng. Đang trong biên chế tờ báo của tỉnh uỷ Hà Nam, dù là ngòi bút chủ lực của báo, Vũ Bão cũng bị buộc phải rời khỏi báo, về Ty Nông nghiệp, rồi Ty Thông tin. Nơi nào cũng chỉ làm anh đầu sai, Vũ Bão liền bỏ thân phận đầu sai của viên chức tỉnh lẻ, về Hà Nội tự kiếm sống. Nặng nợ với văn chương, Vũ Bão xin Tô Hoài, Tổng Thư kí Hội Văn nghệ Hà Nội cho sinh hoạt trong hội và xin cấp giấy giới thiệu đến quân đội để được cho đi thực tế ở mặt trận phía Nam.
Người phờ phạc trên chiếc xe đạp rệu rã, Vũ Bão cầm giấy giới thiệu có chữ kí của Tô Hoài tìm đến 47 phố Lý Thường Kiệt, nơi Ban Tuyên huấn Bộ Tư lệnh Thông tin sơ tán. Làm việc tại đó, tôi đã dẫn Vũ Bão đến trung đoàn quân bưu 78 đang sơ tán ở trường Chu Văn An để Vũ Bão được biên chế vào đội hình lính gùi hàng quân bưu vào mặt trận Quảng Trị, Thừa Thiên. Những trang viết của Vũ Bão về những người lính phơi phới niềm tin ở mặt trận Đường 9, Khe Sanh, về người dân Pa Kô ở Khe Tre, Hướng Hoá sườn Đông Trường Sơn hăng hái đi tải thương, gùi đạn trong cuộc chiến tranh do đảng cộng sản phát động được hệ thống tuyên truyền nhà nước sử dụng tức thì đã đưa tên tuổi Vũ Bão từ trong lãng quên trở lại trên trang sách, trở lại mặt báo chính thống và đưa Vũ Bão trở lại hàng chức sắc, trở lại biên chế công chức nhà nước, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, rồi Phó Tổng Biên tập báo Điện Ảnh Việt Nam.
Khi Vũ Bão được Bộ Văn hoá – Thông tin giao việc dựng lên tờ báo Điện Ảnh thì tôi đang làm biên kịch ở Xưởng phim Quân đội. Từ nhà 65 phố Trần Hưng Đạo, trụ sở báo Điện Ảnh Việt Nam, Vũ Bão thường xuyên trên chiếc xe đạp tàng lóc cóc đến tôi ở xưởng phim, nhà 17 phố Lý Nam Đế. Không phải chỉ là Phó Tổng Biên tập kiêm Trưởng Ban Biên tập tờ báo Điện Ảnh Việt Nam chuẩn bị ra đời đến với người viết về điện ảnh để đặt bài mà Vũ Bão đến với tôi còn như đến với kí ức, đến với một thời chỉ có gừng cay muối mặn không thể quên của cuộc đời.
Từ đó Vũ Bão thường kéo tôi đi với ông rong ruổi khắp nẻo đường Hà Nội. Đến Hãng Phim truyện đầu phố Thuỵ Khuê xem bộ phim mới. Đến Hãng Phim Tài liệu gần cuối đường Hoàng Hoa Thám dự buổi duyệt phim. Đến gặp các nhân vật điện ảnh. Vũ Bão còn dẫn tôi đến những người bạn đồng cảm thân thiết trong hoạn nạn của ông.
Để chiếc xe đạp ở chỗ tôi rồi Vũ Bão dẫn tôi đi bộ vài trăm mét đến nhà văn Lê Bầu ở 105 phố Phùng Hưng. Gian nhà hơn mười mét vuông ngăn đôi. Nửa của nhà thơ “Lúa tháng năm kén tằm vàng óng / Hạt khô giòn đem đóng thuế nông…” Huyền Tâm. Nửa của Lê Bầu, người được sang Trung Quốc học chữ Hán từ cuối kháng chiến chống Pháp nay là nhà văn thay hồn chữ Hán của Quỳnh Dao, của Giả Bình Ao bằng hồn chữ Việt. Nhà chật chỉ có chiếc giường đơn kê sát tường trong cùng. Có chiếc bàn nhỏ làm việc mà không có chỗ đặt ghế, phải ngồi mép giường gõ máy chữ Olympia đặt trên bàn. Khoảng nhà còn lại là chỗ của cái bếp dầu, cái xô nước, vài cái bát, cái nồi và manh chiếu tiếp khách trải trên nền nhà vừa kín diện tích chưa đến chín mét vuông. Nhiều tối khuya, Vũ Bão và tôi đã ngồi với Lê Bầu trên manh chiếu cơ hàn, nghèo khổ đó.
Buổi tối la cà đến Lê Bầu. Nhiều lần trong giờ làm việc, từ 65 Trần Hưng Đạo, Vũ Bão lại dẫn tôi đi bộ cũng chỉ vài trăm mét sang 59 Lý Thường Kiệt, vào phòng Tổng Biên tập báo Độc Lập Ngô Quân Miện. Phòng rộng rãi, sáng sủa. Nhìn qua cửa sổ hướng Nam thấy vòm lá sưa lao xao gió.
Một lần Ngô Quân Miện đang tiếp chúng tôi thì Trần Huy Quang vào gặp. Qua lời giới thiệu của Ngô Quân Miện cũng thấy được tình cảm của tổng biên tập dành cho phóng viên Trần Huy Quang. Tôi gặp Quang lần đầu trong không gian và giữa những con người như vậy. Có phải không gian ấy, những con người ấy đã gợi mở tư duy cho Trần Huy Quang để sau này Quang có Câu chuyện về ông Vua Lốp và có Linh nghiệm?
3. Bút kí giải nhất văn chương
Lính pháo binh ở mảnh đất mưa bom bão đạn Quân khu Bốn. Học Khoa Sử nổi tiếng với những người thầy uyên bác, sắc sảo, đầy cá tính sáng tạo như Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê… tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội danh giá nhất trong các trường đại học ngày đó. Phóng viên báo Độc Lập với bút danh Nhật Linh. Nhà báo Nhật Linh Trần Huy Quang giữ nguyên cốt cách xông xáo của người lính chiến và nhìn nhận hiện thực bằng con mắt lịch sử.
Chiến tranh là xung đột lợi ích nhà nước, là giành giật không gian thống trị của hai thế lực nhà nước. Chiến tranh là nút thắt của sự sống. Người lính phải xông vào nút thắt chết chóc để mở ra cuộc sống bình yên. Cuộc sống đời thường là xung đột lợi ích con người, là giành giật lợi ích của những cá thể. Xung đột lợi ích là nút thắt cản trở dòng chảy cuộc sống. Nhà báo phải nhận ra những xung đột lợi ích, chỉ ra nút thắt của dòng chảy cuộc sống. Có gỡ được nút thắt, dòng chảy cuộc sống mới trôi chảy, hài hoà và tiến triển mạnh mẽ, không bị trì trệ, tụt lại phía sau.
Với bài viết về ông vua lốp xe đạp Nguyễn Văn Chẩn, Nhật Linh Trần Huy Quang đã chỉ ra một nút thắt tưởng như nhỏ bé trong đời sống kinh tế nhưng lại là nút thắt nghiệt ngã trong lòng người và nút thắt định mệnh của một thể chế.
Mỹ tuyên bố cho máy bay đánh phá Bắc Việt, đưa Bắc Việt về thời đồ đá. Thực tế, miền Bắc Việt Nam không về thời đồ đá mà còn tệ hơn: về thời đồ đểu. Cả miền Bắc chỉ có một cái chợ chính thống chi phối đời sống xã hội là chợ mậu dịch quốc doanh. Mọi nhu cầu cuộc sống của người dân đều do mậu dịch quốc doanh cung cấp. Nhưng chỉ có cái chợ quốc doanh Tông Đản, gần Nhà Hát lớn Hà Nội, chợ của quan cấp cao, mới luôn đầy đủ hàng hoá cao cấp từ chiếc tủ lạnh Saratov của Liên Xô đến bao thuốc là Đại Tiền Môn của Trung Quốc, giá thực vô cùng cao mà bán cho quan cấp cao rẻ như cho không.
Còn chợ quốc doanh bán hàng thiết yếu cho cuộc sống người dân sau chiến tranh Nam Bắc kết thúc cả chục năm, hàng hoá vẫn trống rỗng. Người dân thiếu thốn từ cái kim sợi chỉ. Mặt hàng tầm tầm, không đòi hỏi kĩ thuật cao mà cuộc sống cần, chợ quốc doanh không cung cấp được thì chợ tự phát cung cấp. Hàng thật không có thì có hàng giả, hàng đểu. Hàng đểu tràn ngập từ chợ vỉa hè tấp nập phố phường Hà Nội đến chợ quê vùng sâu vùng xa.
Suốt nửa sau thế kỉ hai mươi, người dân cả miền Bắc rồi người dân cả nước di chuyển trên chiếc xe đạp. Xe đạp đi làm, đi học. Xe đạp nối những người thân trong một gia đình tung toé đi kiếm sống khắp mọi ngả đường đất nước. Ô tô rất hiếm. Hàng hoá cần vận chuyển thì chất lên xe ba gác, lên xích lô, lên xe đạp thồ. Chiếc lốp xe đạp của đời sống xã hội như cơm ăn của con người. Lốp xe đạp của nhà máy cao su Sao Vàng chỉ có thể cung cấp nhỏ giọt cho viên chức nhà nước. Cả năm trời mới có đợt phân phối lốp xe đạp. Hơn chục người nín thở bốc thăm mới có một người may mắn thở phào nhẹ nhõm, sung sướng bốc được phiếu mua lốp.
Chợ quốc doanh không có lốp thật của nhà máy cao su Sao Vàng thì chợ vỉa hè có ngay lốp mang nhãn hiệu Sao Vàng nhưng là lốp giả, lốp đểu của những lò làm lốp thủ công lẩn khuất trong ngõ sâu, núp sau một công việc hợp pháp của những người thừa lòng tham, thừa mưu mẹo gian dối, chụp giật mà không có lương tâm và tầm vóc của một doanh nghiệp chân chính.
Ông Nguyễn Văn Chẩn không đi theo con đường gian dối, chụp giật, kinh doanh núp bóng nhãn hiệu Sao Vàng mà ông đàng hoàng tạo ra nhãn hiệu lốp Nguyễn Thái Học và tạo ra danh tiếng Vua Lốp. Xẻ chiếc lốp Sao Vàng ra xem thành phần cấu tạo. Đi gom nhặt lốp ô tô cũ vất đầy những bãi hoang. Bóc tách vải bố lốp ô tô cũ làm vải bố lốp xe đạp. Đến bãi thải nhà máy cao su Sao Vàng, lúc đầu thoải mái gom nhặt cao su thải, sau kí hợp đồng mua cao su loại bỏ của nhà máy với giá rác thải. Mày mò tạo ra dây chuyền công nghệ nấu cao su, ép lốp.
Từ vải bố lốp ô tô cũ, từ cao su Sao Vàng thải, tổ sản xuất Quyết Thắng do ông Nguyễn Văn Chẩn đứng tên đăng kí kinh doanh tạo ra những chiếc lốp xe đạp, xe thồ, xe xích lô, trên lốp in rõ hàng chữ tên cơ sở sản xuất Quyết Thắng, nơi sản xuất phố Nguyễn Thái Học, Hà Nội, lập tức được thị trường ưa chuộng. Nhất là những người chạy xe thồ, đạp xích lô thì mê tít vì lốp Nguyễn Thái Học rẻ hơn hẳn lốp Sao Vàng, lại có sẵn ở mọi cửa hàng bán đồ xe đạp phố Huế.
Người mua không cần nhớ, không cần biết tên cơ sở sản xuất vì cái tên Quyết Thắng đang thịnh hành, xuất hiện khắp nơi. Đến hộp tăm tre cũng có hàng chữ “Tổ sản xuất tăm tre Quyết Thắng”. Cái tên Quyết Thắng chẳng xác định được điều gì, còn nơi sản xuất ở phố Nguyễn Thái Học, Hà Nội chỉ có một, là sự xác định rõ ràng. Nơi làm ra chiếc lốp xe đạp được tin dùng, mang lại sự yên tâm vì dễ dàng mua được, không cần chờ phân phối nhỏ giọt, vì chất lượng tốt trở thành tên gọi trên thị trường: Lốp xe Nguyễn Thái Học.
Chiếc xe đạp như một phần cơ thể của người dân Việt Nam thời đói khổ, thiếu thốn. Thời đó dân gian định nghĩa về cơ thể con người là: Con người gồm đầu, mình, chân tay và xe đạp. Trong chiếc xe đạp thì lốp xe lăn trên đường, bị mặt đường cào, thúc, mài mòn, nhanh bục nát nhất. Lốp bục, không có xe chạy, con người thành tàn tật. Lốp xe càng được sự quan tâm hàng đầu, là nỗi lo thường trực của người kiếm sống trên hai bánh xe, người đạp xích lô, người chạy xe thồ. Lốp xe đạp Nguyễn Văn Chẩn đã lấp được khoảng trống của một mặt hàng thiết yếu, đáp ứng được một nhu cầu cấp bách của cuộc sống, tạo được sự lành mạnh cho một thị trường đang hỗn loạn.
Nhưng thị trường có hỗn loạn thì những người làm ăn bất chính mới có đất sống. Thế là tới tấp đơn tố cáo gửi đến các cơ quan nhà nước vu khống người sản xuất kinh doanh chân chính Nguyễn Văn Chẩn. Các cơ quan pháp luật lập tức sốt sắng vào cuộc và người trung thực làm ra chiếc lốp xe đạp tốt và rẻ đáp ứng nhu cầu đời sống xã hội liền bị truy tố tội danh rất nặng nề nhưng cũng rất mơ hồ, mù mờ, tội đầu cơ kinh tế, tội tiêu thụ tài sản xã hội chủ nghĩa bị chiếm đoạt. Ông Chẩn bị bắt giam. Nhà xưởng, công cụ, vật tư sản xuất và toàn bộ tài sản có giá trị của gia đình bị tịch thu. Ròng rã năm này sang năm khác khiếu nại với đầy đủ chứng từ, số liệu sổ sách chứng minh sự làm ăn chính đáng, minh bạch, hơn hai năm sau ông Nguyễn Văn Chẩn mới có quyết định đình chỉ điều tra nhưng tư liệu sản xuất và tài sản gia đình của ông bị tịch thu thì đã tan biến, không còn gì để hoàn lại cho ông.
Dân gian đúc kết: Có chí làm quan, có gan làm giầu. Đồng vốn đã trống rỗng. Niềm tin cũng đã trống rỗng. Cái gan gây dựng cơ đồ, làm giầu cho gia đình, đóng góp cho xã hội cũng không còn. Không thể sản xuất trở lại. Những chiếc lốp xe đạp bền và rẻ được ưa chuộng sản xuất ở phố Nguyễn Thái Học có đăng kí, có đóng thuế vắng bóng trên thị trường thì những lò làm lốp chui, lốp đểu không làm giả lốp cao su Sao Vàng nữa mà đổ xô làm giả lốp cao su của vua lốp Nguyễn Văn Chẩn. Những chiếc lốp đểu của những lò sản xuất ma không đăng kí kinh doanh, không đóng thuế ở những xó xỉnh không thể xác định nhưng trên lốp đều có hàng chữ nổi sản xuất ở phố Nguyễn Thái Học lại náo loạn thị trường. Mặt hàng lốp xe đạp lại bịt bùng hàng giả, hàng đểu.
Tôi phải lược lại đường dây sự việc kí sự hơn ba ngàn từ của Câu chuyện về ông Vua Lốp để thấy cốt cách người lính xông xáo, len lỏi vào ngóc ngách cuộc sống, phát hiện xung đột lợi ích, phát hiện nút thắt dòng chảy cuộc đời của nhà báo Trần Huy Quang. Điều lớn hơn nữa là sự việc con người lao động sáng tạo và trung thực Nguyễn Văn Chẩn bị vô hiệu, giá trị thật bị loại bỏ để giá trị giả lên ngôi như một tia chớp trong nhận thức hiện thực cuộc sống, như một cú hích trong vận động tư tưởng của Trần Huy Quang mà sau này bài viết sẽ còn nhắc đến.
Không được thể hiện mình, không thể tồn tại chính danh, phải lui về mai một trong dân gian không chỉ là một thân phận Nguyễn Văn Chẩn mà là thân phận của nhiều con người, nhiều cuộc đời có tấm lòng trung thực, có tài năng đóng góp cho xã hội mà phải sống trong thời đồ đểu là mạch ngầm mà người đọc có cảm thụ tinh tế, có trái tim nhạy cảm với cuộc sống, có tâm hồn rộng mở với cuộc đời sẽ nhận ra. Còn Câu chuyện về ông Vua Lốp chỉ kể một buổi người viết la cà ở phố Huế chuyên bán phụ tùng xe đạp nhận thấy từ cửa hàng lớn, bảng hiệu to trong gian nhà rộng mặt phố đến mẹt hàng di động, trôi dạt ở vỉa hè đều bày bán lốp xe đạp, xe xích lô trên lốp đều có hàng chữ nổi sản xuất tại phố Nguyễn Thái Học rõ nét và được nghe người bán hàng tán tụng về ông Vua Lốp Nguyễn Văn Chẩn làm ra chiếc lốp xe đạp đang tràn ngập thị trường. Người viết liền tìm đến phố Nguyễn Thái Học gặp ông Chẩn thì ông không còn là Vua Lốp mà là lương y, lần hồi kiếm sống qua ngày bằng nghề bốc thuốc Nam và nghe ông kể về đoạn đời Vua Lốp thành công lừng lẫy của ông mà bị mất cơ đồ, phải bỏ sự nghiệp kinh doanh thành đạt về làm ông lang vườn.
Chỉ kể sự việc như đã diễn ra, nhờ vậy kí sự Câu chuyện về ông Vua Lốp của Nhật Linh Trần Huy Quang đã giành giải nhất trong cuộc thi bút kí do báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam cùng Đài Tiếng nói Việt Nam tổ chức ở thời kì đất nước khốn khó, cuộc sống bế tắc, người dân khốn cùng nhất.
4. Đi về giữa nỗi buồn thăm thẳm và niềm vui nhỏ bé
Trần Huy Quang kể với tôi rằng tổ tiên anh phải bỏ kinh đô Thăng Long chạy trốn vào Nghệ An khi Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, tuyệt diệt sạch sành sanh giới quí tộc, quan lại nhà Trần. Tôi lại chợt nhớ nhà văn, đại tá Triệu Huấn, tên khai sinh là Phạm Triệu Huấn cũng kể rằng khi vụ án Lệ Chi Viên xảy ra thì người đàn bà họ Phạm tổ tiên của ông đang mang trong người giọt máu dòng họ Ức Trai Nguyễn Trãi ở Nhị Khê phải lẩn trốn cuộc thảm sát ba dòng họ. Gốc gác họ Nguyễn làng Nhị Khê nhưng lại mang họ Phạm của Triệu Huấn có từ đó. Từ Trần Huy Quang, từ Triệu Huấn, tôi nhận ra rằng những cốt cách trí lự, tài năng hơn người dường như đều phải có cội nguồn sâu xa.
Quang cũng kể với tôi là trước năm 1945 Quang ở Hà Nội với bố. Từ bãi biển Quỳnh Lưu, bố Quang tìm về nơi nhà Trần dựng nghiệp và ông đang buôn bán khấm khá ở kẻ chợ Hà Nội thì ầm ầm bão táp Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra. Quyền lực nhà nước theo tiến trình lịch sử phải từ giai cấp quí tộc phong kiến suy tàn chuyển giao cho giai cấp ở đẳng cấp tiến bộ hơn, đó là giai cấp tư sản, đưa xã hội từ nền sản xuất nông nghiệp trì trệ vào nền sản xuất công nghiệp phát triển. Bảo Đại, nhà vua của quí tộc phong kiến đang lụi tàn lập chính phủ Trần Trọng Kim của giai cấp tư sản, trí thức đang thức dậy, vươn vai lớn mạnh là hợp tiến trình lịch sử và chính phủ Trần Trọng Kim là chính phủ chính danh, đáp ứng được đòi hỏi của thời đại. Đảng của giai cấp vô sản, của dân nghèo cùng khổ làm cách mạng cướp chính quyền của trí thức và nghiệp chủ là cuộc cách mạng ngược tiến trình lịch sử.
Sống trên mảnh đất đã diễn ra cuộc bạo loạn Xô-Viết Nghệ Tĩnh tháng Chín năm 1930, doanh nhân dòng dõi nhà Trần nhận ra rằng chính đảng đã làm cuộc thảm sát tắm máu trí, phú, địa, hào ở Nghệ An, Hà Tĩnh năm 1930 nay nắm quyền thống trị cả nước thì thời làm giầu của ông không còn nữa. Không còn nữa cả giới chủ doanh nghiệp đang kinh doanh dựng nghiệp, đang gắng gỏi đua tranh với chủ doanh nghiệp người Pháp, người Hoa, người Ấn, mở ra sự phát triển mạnh mẽ cho đất nước, đưa xã hội Việt Nam tối tăm, trì trệ, bùn lầy nước đọng của nền kinh tế nông nghiệp cổ xưa hăm hở bước vào ánh sáng của nền kinh tế công nghiệp và thương nghiệp năng động.
Nhắc đến ông bố có chí làm giầu mà không gặp thời rồi Quang nhìn vào xa xăm, nói giọng xa vắng như tự nói với mình: Cách mạng Tháng Tám 1945 thực sự là cuộc cướp ngôi bất chính. Vẫn như tự sự, Quang quay sang nhìn tôi và diễn giải lịch sử: Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần chỉ diệt quí tộc, tinh hoa một dòng họ Trần. Cách mạng Tháng Tám tiêu diệt cả tầng lớp tinh hoa của tất cả các dòng họ Việt Nam, tiêu diệt cả ý chí làm giầu chấn hưng đất nước và tiêu diệt cả tài năng lao động sáng tạo bẩm sinh của con người Việt Nam. Tôi lại nhận ra thêm một điều: Học trò thầy Trần Quốc Vượng, cử nhân Khoa Sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông bạn Trần Huy Quang của tôi, đã nhìn lịch sử đất nước qua chính số phận gia đình mình.
Khi người Hà Nội đục thông những tường nhà san sát nhau, mở ra con đường xuyên qua những vòm tường nham nhở trong lòng những dãy nhà phố cho tự vệ chiến đấu di chuyển, khuân cả tràng kỉ, sập gụ gỗ quí ra đường phố, dựng chiến luỹ chặn bước tiến của quân Pháp, ôm bom ba càng đánh xe tăng Pháp và giành giật từng căn nhà với lính Pháp. Khi Hà Nội mịt mù khói lửa và rát rạt những đường đạn giết chết sự sống. Khi người dân Hà Nội dắt díu nhau, sấp ngửa rời ba mươi sáu phố phường tránh lửa đạn chiến tranh, bố Quang cũng rời kẻ chợ Hà Nội về làng quê Kẻ Mơ, Quỳnh Minh, Quỳnh Lưu, Nghệ An, nơi ông có căn nhà và mảnh vườn nhìn ra biển Quỳnh Lưu, buôn bán nhỏ nuôi vợ con qua ngày.
Tháng Mười Hai năm 2018, tôi đã về ở với Quang gần một tuần ở căn nhà có mảnh vườn nhỏ trồng sưa bên bãi biển Quỳnh Minh, Quỳnh Lưu, Nghệ An.
Lại phải kể khúc nhôi đôi điều về con đường đưa Quang đi về giữa hai chốn gắn bó của cuộc đời mình. Đi về từ gian phòng trên gác hai nhà 56 phố Bà Triệu, Hà Nội, đến ngôi nhà bên bãi biển làng Kẻ Mơ, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Đi về giữa hiện tại và quá khứ.
Suốt hai cuộc chiến tranh từ 1946 đến 1975, nhà văn Nguyên Ngọc xông xáo ở mặt trận Khu Năm ác liệt, để lại dấu chân người lính Nguyên Ngọc từ núi rừng Ngọc Linh, Kontum đến làng ven biển Sa Huỳnh, Tam Quan, Bình Định. Ngày là người lính cầm súng đánh giặc. Đêm trong căn hầm sát đồn bốt giặc, người lính Nguyên Ngọc lại trở về sứ mệnh nhà văn, cầm bút viết Rừng Xà Nu, viết Đường chúng ta đi, những truyện ngắn và tuỳ bút mang hơi thở cuộc kháng chiến, mang hào khí dựng nước và giữ nước. Năm 1987, nhà văn lính Nguyên Ngọc nhỏ bé, gày guộc, nước da còn xanh như lá rừng, xạm màu đá núi bởi sốt rét được Ban Thư kí, Hội Nhà văn Việt Nam giao trách nhiệm làm Tổng Biên tập tuần báo Văn Nghệ thay nhà văn Đào Vũ cao lớn, bảnh bao, trắng trẻo, hồng hào vì chỉ quanh quẩn ở Hà Nội.
Thời chiến tranh, người lính xông vào nút thắt chết chóc để mở ra dòng chảy cuộc sống bình yên. Tổng Biên tập báo Văn Nghệ, nhà văn mang cốt cách người lính Nguyên Ngọc cũng đòi hỏi người làm báo Văn Nghệ phải có con mắt sắc sảo nhìn ra nút thắt cản trở dòng chảy cuộc sống. Con mắt sắc sảo của người làm báo cũng phải như đường đạn thẳng căng của người lính quất vào kẻ thù. Ông không chấp nhận những nhà báo chỉ là công chức hành chính, sáng đến ngồi trong căn phòng lặng ngắt, hít thở không khí ngưng đọng rồi hờ hững, vô cảm nhìn vào trang giấy trước mặt như một người máy. Hết giờ làm việc chiều, la đà men bia ở vỉa hè, men rượu trong nhà hàng mới là lúc trở về con người thực nhưng chỉ là con người sinh vật, không hề có bóng dáng của con người xã hội. Nhà báo như vậy chỉ có nếp nghĩ mòn cũ, cảm xúc vay mượn, gọi dạ bảo vâng. Ông cần những người làm báo có phẩm chất người lính, có ý thức về bổn phận công dân. Hai nhà văn xông xáo và sắc sảo phát hiện nút thắt cuộc sống, Trần Huy Quang ở báo Độc Lập và Hoàng Minh Tường ở báo Người Giáo Viên Nhân Dân được Nguyên Ngọc đón về báo Văn Nghệ.
Lập tức báo Văn Nghệ lột xác. Cuộc sống vật vã của đất nước, cuộc sống gian nan của người dân tràn vào trang báo. Người dân thấy bóng dáng của mình, thấy những vấn đề gấp gáp đang đặt ra với đất nước ở những phóng sự chân thực: Người biết làm giầu, Lời khai của bị can của Trần Huy Quang, Làng giáo có gì vui?, Anh hùng khi đã sa cơ của Hoàng Minh Tường. Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc. Con đường có máu chảy của Trần Quang Quý. Tiếng đất của Hoàng Hữu Các. Người đàn bà quỳ của Trần Khắc. Đá nổi xôn xao của Hoài Tố Hạnh… Ngày báo phát hành, sáng thứ Sáu hàng tuần, trước trụ sở báo Văn Nghệ, 17 phố Trần Quốc Toản, Hà Nội, từ sáng sớm đã có rất đông người chầu chực chờ mua báo chở từ nhà in về. Số lượng phát hành từ năm ngàn nhanh chóng tăng lên hơn trăm ngàn tờ, tăng gấp hơn hai mươi lần, mang lại lãi lớn. Lãi lớn về tiền bạc cho tờ báo đang lay lắt, kiệt quệ. Lãi lớn về thanh danh, uy tín cho Hội Nhà văn Việt Nam đang là chiếc bóng mờ nhạt của tuyên giáo. Tờ báo thu hút đông đảo người dân cùng trăn trở nghĩ suy với những vấn đề đặt ra của đất nước là lãi lớn về chính trị cho chính quyền, cho nhà nước.
Nhưng thật trớ trêu. Được lãi lớn như vậy lại là nỗi lo của những người độc quyền quyền lực. Dù đời sống kinh tế đã xoá bỏ bao cấp, kinh tế đã đa nguyên, đa thành phần. Mỗi thành phần kinh tế đều cần có tổ chức chính trị, cần có tiếng nói chính trị trong xã hội. Nhưng đời sống chính trị vẫn bao cấp, vẫn chỉ có một tổ chức chính trị là đảng cộng sản độc quyền quyền lực nhà nước, thì vẫn chỉ có một tiếng nói chính trị mà báo Văn Nghệ của Nguyên Ngọc lại nói tiếng nói của cuộc sống.
Bao cấp chính trị thì đời sống văn hoá, tinh thần, tư tưởng, tình cảm vẫn phải bao cấp, vẫn phải có định mức, định hướng. Người dân được đọc, được xem, được suy nghĩ gì, được biết sự thật gì, biết đến mức độ nào, đều có định hướng và định mức. Báo Văn Nghệ thời Nguyên Ngọc đã vượt qua cái định mức, định hướng làm nghèo khổ đời sống văn hoá, tinh thần người dân đến mức ngu dân. Như người dân đã phải chịu nghèo khổ đến thấp hèn đời sống vật chất thời bao cấp kinh tế. Người dân được đọc sự thật trần trụi về thân phận con người, sự thật day dứt về hiện tình đất nước quá định mức cho phép là lệch lạc nghiêm trọng. Những người độc quyền quyền lực, độc quyền ban phát đời sống văn hoá, tinh thần, tư tưởng, tình cảm cho dân thấy lo lắng, bất an. Lo lắng đến nỗi phải điều hàng chục công an chìm, công an nổi đến canh chừng người dân sáng thứ Sáu hàng tuần náo nức kéo đến báo Văn Nghệ chờ mua báo.
Trong nỗi lo sợ người dân biết sự thật hiện tình đất nước, trong nỗi bất an của quyền lực, báo Văn Nghệ bị qui kết xa rời sự lãnh đạo của đảng. Nguyên Ngọc phải thôi chức tổng biên tập chỉ sau hơn một năm nỗ lực mang đến cho báo sức sống mạnh mẽ và lành mạnh, làm cho tờ báo thực sự là tiếng nói của bổn phận và lương tri công dân, tiếng nói của bổn phận và lương tri sĩ phu với đất nước. Đầu năm 1989, nhà thơ Hữu Thỉnh về quản lí báo Văn Nghệ thay thế Nguyên Ngọc. Báo Văn Nghệ lại trở về là chiếc tủ kính bóng bẩy nhưng lặng ngắt trưng bày những mặt hàng văn chương gia công cho tuyên giáo, lại trở về an phận làm tờ báo công cụ của tuyên giáo và cung kính hướng thượng, đón ý quyền lực. Không cần hướng đến nhân dân. Không cần hướng đến cuộc sống đất nước.
Nguyên Ngọc, sinh năm 1932 cùng các nhà văn Nguyễn Đình Thi 1921, Bùi Hiển 1919, Nguyễn Văn Bổng 1921, Nguyễn Khải 1930… là lứa nhà văn ít nhiều có nền tảng văn hoá giáo dục Pháp, nền giáo dục dạy con người kiến thức văn hoá nhân loại, dạy tư thế và tư cách con người nhân loại, con người tự do sáng tạo, làm giầu có thêm kho tàng văn hoá nhân loại. Hữu Thỉnh sinh năm 1942, lớn lên trong cuộc kháng chiến chống Pháp ở vùng Pháp chiếm đóng. Mười tuổi đã bị lính Pháp bắt về đồn làm lao dịch. Miền Bắc sạch bóng giặc Pháp, Hữu Thỉnh mới được cắp sách đến nhà trường xã hội chủ nghĩa, tiếp nhận nền văn hoá, giáo dục xã hội chủ nghĩa, nền giáo dục coi giáo dục lí tưởng cộng sản và đào tạo con người công cụ là mục đích.
Đương nhiên Trần Huy Quang và tôi cũng là sản phẩm của nền giáo dục đào tạo công cụ và chúng tôi đã mất cả những năm tháng dài sung sức nhất, đẹp nhất, quí giá nhất của cuộc đời làm công cụ cầm súng đi vào cõi chết mở rộng lãnh thổ cai trị của đảng cộng sản trên cả đất nước. Quang và tôi đều có may mắn sống sót trở về. May mắn hơn nữa là thực tế cuộc đời và trí tuệ, lương tâm đã thức tỉnh chúng tôi. Tôi đã từ bỏ đảng cộng sản và từ bỏ Hội Nhà văn Việt Nam mà nhiều người vẫn gọi là Hội Nhà văn Hữu Thỉnh.
Đứng đầu Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 2000 đến năm 2021, hơn hai mươi năm Hữu Thỉnh ồ ạt đưa vào hội khá đông những người hoàn toàn thiếu vắng cảm hứng văn học. Không có hồn nhân văn để cảm hứng về thân phận con người mà chỉ có con người công cụ tuyên truyền. Không có cảm hứng của nghệ sĩ sáng tạo, chỉ có cảm hứng vay mượn, cảm hứng áp đặt của tuyên giáo. Chỉ có cảm hứng phơi phới đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Phơi phới tự hào cho họ say sưa ngợi ca cuộc cách mạng ngược tiến trình lịch sử, cho họ niềm vui sướng, thoả mãn của bên thắng cuộc trong cuộc chiến tranh đau thương, tủi nhục người Việt giết người Việt. Hơn hai chục năm đứng đầu Hội Nhà văn, Hữu Thỉnh đã nâng số hội viên từ hơn bốn trăm lên hơn một ngàn. Ngoài những cây bút có cá tính sáng tạo, lặng lẽ với trang văn, hàng trăm hội viên được Hữu Thỉnh kết nạp chỉ là một dàn đồng ca theo chiếc đũa chỉ huy của ban tuyên giáo.
Là bí thư đảng đoàn Hội Nhà văn, Nguyên Ngọc viết Đề dẫn của hội xác định con người cá nhân, con người tự do và con người nhân loại của nhà văn, nhìn nhận những hạn chế lịch sử của đội ngũ nhà văn công nông và đòi hỏi trách nhiệm nhà văn với thời đại, với đất nước, với nhân dân. Đứng đầu báo Văn Nghệ, Nguyên Ngọc đưa tờ báo hoà nhập vào cuộc sống, nói tiếng nói trung thực của cuộc sống đất nước, mang lại sức sống lành mạnh, cường tráng cho tờ báo. Văn Nghệ trở thành thực phẩm bổ ích, cần thiết trong đời sống văn hoá của đông đảo người dân. Đưa số lượng phát hành Văn Nghệ từ năm ngàn lên hơn trăm ngàn.
Đứng đầu Hội Nhà văn, hàng năm Hữu Thỉnh chạy đến cơ quan phân bổ ngân sách quốc gia nỉ non xin tiền, xin ô tô cho hội. Xin được tiền, Chủ tịch Hội Hữu Thỉnh hớn hở: Nhà nước vẫn nuôi anh em chúng ta! Mỗi năm người đứng đầu Hội có cả chục tỉ tiền thuế mồ hôi nước mắt của dân vung vinh tiêu xài trong sinh hoạt hội, rộng rãi ban phát ân sủng cho hội viên với tên gọi “Đầu tư sáng tác”.
Tiền “Đầu tư sáng tác”cho hội viên cũng là tiền đầu tư phiếu bầu, cho Hữu Thỉnh đứng đầu Hội Nhà văn liền bốn khoá. Cũng là tiền mua ngòi bút, mua linh hồn nhà văn. Các nhà văn hầu hết đều là công chức, viên chức, có lương ổn định. Tác phẩm được xuất bản có nhuận bút. Nay lại có khoản tiền mưa móc “Đầu tư sáng tác”. Những nhà văn đích thực đều cúi mặt ngậm ngùi. Một số hội viên như Nguyên Ngọc, Ý Nhi dứt khoát không nhận đồng tiền móc túi ngân sách, đồng tiền ăn vạ mồ hôi nước mắt của dân và không thể tiếp tục là hội viên một tổ chức ăn bám nữa. Còn những hội viên ngửa tay nhận tiền “Đầu tư sáng tác” thì cứ hoan hỉ sung sướng trong dàn đồng ca.
Đứng đầu báo Văn Nghệ, Hữu Thỉnh chạy đến các cơ quan quyền lực Hà Nội xin đất vàng kinh kì rồi phân lô cấp cho người của báo. Trần Huy Quang được báo Văn Nghệ thời Hữu Thỉnh cấp đất làm nhà ở phố Nguỵ Như Kontum trong khu thủ đô mở rộng khang trang, hiện đại ở Mỹ Đình.
Giao lô đất mưa móc được Hữu Thỉnh ban phát cho con, Quang vẫn ở căn gác nhà 56 phố Bà Triệu. Nhà thơ Vân Long mua được nhà, chuyển đến nhà mới, nhượng lại nửa gian nhà cho Quang. Có cả gian nhà rộng rãi trên gác hai nhìn xuống phố Tây sang trọng trung tâm thủ đô nhưng khi nghỉ hưu, Quang về sống trên mảnh đất của cha ông để lại ở Kẻ Mơ, Quỳnh Minh, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Gian nhà trên gác hai phố Bà Triệu chỉ như lãnh sự quán để Quang đi về gặp gỡ bầu bạn, tiếp nhận hơi thở đời sống văn chương, nắm bắt thời sự hoạt động nghệ thuật ở trung tâm văn hoá đất nước. Đi về giữa kẻ chợ Hà Nội và Kẻ Mơ Quỳnh Lưu, Quang như đi về giữa hiện tại và quá khứ. Đi về giữa nỗi buồn thăm thẳm và niềm vui nhỏ bé. Đi về giữa nơi bon chen thật giả khôn lường và miền yên tĩnh. Đi về giữa chốn day dứt và nơi thanh thản.
(Xem phần 2, phần 3, toàn bài trong bản PDF)
© Phạm Đình Trọng và Pro&Contra
March 8, 2023
Ba bảy đường
Phạm Thị Hoài
Sau giai đoạn huy hoàng đánh thuốc lá lậu quy mô lớn đóng vai trò tích lũy nguyên thủy gây dựng cộng đồng, người Việt thuộc các đợt di cư tiếp theo sang Đức đã tỏa ra nhiều lĩnh vực khác, ngày càng đa dạng. Làm mi làm móng; làm bếp nóng cơm rang mì xào, bếp nguội cuốn sushi; giữ kho, giao hàng, bồi bàn pha nước, phụ hồ, bó hoa, sơn sửa, cạy cửa, trồng rau, hái dâu, nhặt nấm, cắt tóc, khuân vác, dọn rác, cờ bạc, cò mồi, lau chùi, nhặt ve chai, trông trẻ, buôn đồ cổ, trồng cỏ, đòi nợ, công ty hai ngón. Phụ nữ Việt, không ít người bán dâm.
Tôi không thấy phụ nữ bán thân để mưu sinh, mưu cầu hạnh phúc hay vì bất kỳ một lý do nào khác đáng khinh bỉ hay thương hại. Chúng ta đều tồn tại bằng cách bán chác những gì mình sở hữu hoặc không sở hữu và cả những thứ nẫng trộm hay cướp trắng của người khác. Bán óc sao lại sang trọng hơn bán trôn? Phe chống hợp pháp hóa mại dâm cho rằng gái điếm không bán thân thể mà bán phẩm giá, trong khi nhà văn như tôi chỉ bán một sản phẩm ngôn ngữ, và hai thứ đó không thể đánh đồng. Song tôi trút vào kỹ năng viết của mình không ít hay nhiều phẩm giá hơn cô gái điếm trộn nó vào kỹ năng tình dục; tuy nhiên vấn đề không phải ở đó, vì phẩm giá là thứ không mua hay bán được, mà nó bị đánh mất hay bị tước đoạt. Nhà văn có thể đi khách tinh thần, bán văn cách cho thị hiếu hay đạp lên chữ mà tiến thân và đánh mất phẩm giá của ngòi bút – tuy điều này hiếm khi giết chết một tác giả. Cô gái điếm có thể bị tước đoạt phẩm giá, song cô bị cưỡng bức hạ nhục chỉ trong một khoảng thời gian giới hạn và được thù lao theo thỏa thuận, vẫn hơn chán vạn những phụ nữ trọn đời làm nô lệ không công, làm đệm giảm xóc và thảm chùi chân, làm túi đấm và con ở, làm ống nhổ và khe phun cho các đấng ông chồng trong cái thiết chế xã hội được mệnh danh là hôn nhân và gia đình. Phẩm giá cũng có ba bảy đường.
Gái điếm bỏ nghề được coi là hoàn lương hay phục hồi nhân phẩm. Ngôn ngữ có thể tàn nhẫn như vậy. Song vốn tự có, như cách gọi mỉa tấm thân của gái ngành, chân thực hơn hẳn vốn đa cấp từ lùa gà lừa đảo, vốn ảo thổi khống của hàng loạt tập đoàn kinh tế từng là niềm tự hào quốc gia, hay vốn nhà nước tái cơ cấu để thất thoát. Lấy lỗ làm lời, như thành ngữ hiện đại, thậm cynic so với hình ảnh bán trôn nuôi miệng mộc mạc, là loại kinh doanh lương thiện hơn hẳn chiêu trò chuyển giá báo lỗ để ăn lời tránh thuế của rất nhiều doanh nghiệp ông lớn. Làm gái, như cách nói mặc nhiên khinh rẻ toàn bộ phái nữ, là làm một công việc thực sự đầu tư và tiêu hao sức lao động, hơn hẳn những job hờ vờ vịt như thường gặp ở giới công chức bàn giấy nhà nước. Tiếng Việt là một hiện trường bề bộn không ai buồn thu dọn; chúng ta thản nhiên dùng những từ ngữ đầy bỉ bôi kỳ thị như thế, thậm chí thấy thú vị, dễ mua vui.
Một cô gái nghề ở Berlin kể với tôi rằng ở Quảng Bình quê cô, không nói ra nhưng ai cũng biết đàn bà con gái sang đây làm gì là tốt nhất. Danh nghĩa là đi Đông Âu xuất khẩu lao động, song có mất trí mới bỏ ra nửa tỷ để ngồi im ở Tiệp hay Hung. Ai cũng bỏ hợp đồng, tìm đường sang Đức. Chẳng ai bị lừa bán vào lầu xanh hết. Người trước dắt người sau, có đường đi lối về thông tỏ cả. Cho thuê thân xác có vẻ là con đường giải thoát ngắn và ít rủi ro nhất cho những phụ nữ Việt không có gì ngoài một đống nợ và một kế hoạch đổi đời. Các nghề khác, may mắn thì hai năm hay lâu hơn, nếu không sa chân vào sàn bay và máy đánh bạc, mới trả hết nợ. Nghề này, tiếp bảy tám khách một ngày, 30 phút năm chục, một tiếng tám chục chưa kể tiền tip, mỗi tháng cũng để ra được dăm ngàn, nửa năm là xong vé. Làm thêm một năm nữa rồi có thai đúng thời điểm là đủ tiền mua một ông bố Đức cho con và cho mình ăn theo con. Cô may mắn được một khách quen thương, cưới làm vợ. Cô bảo, Tây nó thoáng lắm chị ạ, họ chẳng lăn tăn mình xuất thân thế nào. Cô đang làm thủ tục đón hai đứa con sang đoàn tụ, thằng Tây nhà em yêu tụi nhóc lắm. Vợ chồng đã về Quảng Bình thăm quê, được Ủy ban Nhân dân xã đón tiếp như doanh nhân thành đạt. Doanh nghiệp của cô bây giờ là đại lý cho thiên đường hạnh phúc. Lo khám sức khỏe, tiêm tránh thai định kỳ cho chị em, thuê phòng, đầy đủ chăn gối thơm tho và bao cao su chất lượng tốt, hậu cần cơm nước, chụp ảnh, quảng cáo, điều phối khách, dàn xếp xung đột. Trăm thứ việc, hưởng phần trăm vừa phải, không cắt cổ như nhiều má mì khác. Cô không cưỡng ép, không bóc lột, lại kiêm cả chức năng công đoàn nên được tín nhiệm. Từ nghề này đi lên, cô biết. Nước Đức cho phép mại dâm nhưng cấm môi giới, song chị em mới sang bỡ ngỡ lắm, cô cầm tay chỉ việc, giúp cho đến khi họ ra tự lập, cô không phải là hạng Tú Bà. Tôi hỏi, thế em có như nàng Kiều không? Cô cười rộ, úi, em mà Kiều thì thằng Tây nhà em là Từ Hải chắc? Hay Kim Trọng?
Việt Nam chắc chắn đã vượt qua Thái Lan trong ngành mại dâm ở Đức. Nhiều người ngạc nhiên, hiện tượng này khó giải thích bằng văn hóa cộng sản và truyền thống Khổng giáo. Song tình dục chính là hệ thống van đặc dụng của chiếc nồi áp suất chính trị và đạo đức. An toàn, không tốn ngân sách, dễ điều chỉnh. Trong tác phẩm Praha thác loạn (The Prague Orgy, 1985) của Philip Roth, nhân vật dâm nữ cuồng nhiệt Olga, người có cặp đùi đẹp nhất Praha, tuyên bố rằng đụ là tự do duy nhất còn lại ở đất nước này mà chúng nó không thể và cũng không cần đình chỉ. Nàng than phiền, có chủ nghĩa xã hội để làm gì nếu không ai chịu đụ nàng. Cả đống vĩ nhân thế giới đến Tiệp, nào Heinrich Böll, nào Carlos Fuentes, nào Graham Greene, nhưng chẳng ma nào đụ nàng. Sartre cũng vác mặt sang, Sartre không đụ nàng. Simone de Beauvoir theo Sartre sang, cũng không đụ nàng. Tất cả chỉ mải quan sát chính quyền Tiệp đàn áp nhân dân và viết kiến nghị mong cứu Tiệp Khắc, nhưng người ta chỉ có thể cứu Tiệp Khắc nếu đụ Olga. Nàng đòi nhà văn Mỹ cưới và đưa nàng ra khỏi Tiệp Khắc. Nếu không, ngay đêm nay nàng sẽ đi cuỗm một xe tăng Liên Sô để tự sát. Olga là vợ một nhà văn Tiệp lừng danh lưu vong ở phương Tây mà Milan Kundera là nguyên mẫu.
Nàng Kiều của tôi ở Berlin chưa bao giờ nghĩ về tự do tình dục và càng không nghĩ đến cứu nước. Nàng chỉ tự cứu mình. Hoàn toàn thiết thực, chủ động, bất chấp định kiến, không cần ai thương vay khóc mướn, không cam chịu thân phận, không diễn vai nạn nhân. Kiều cũng ba bảy đường.
Tuần báo Trẻ, 09/3/2023
February 17, 2023
Trước kia toàn bộ chiến thuật thời trang của tôi là phòng thủ
Phạm Thị Hoài
Trước kia toàn bộ chiến thuật thời trang của tôi là phòng thủ. Giữ, đỡ, che chắn một pháo đài hình trụ quá ngắn và quá vô lý, lép chỗ cần lồi để lồi chỗ cần lép. Tôi không thể đàng hoàng đi giày bệt vì sợ lệt xệt làm một chiếc nấm mọc cả những ngày không mưa. Giày quá cao cũng không dám. Loạng choạng trên một tấc chân hai tấc giày là cách che giấu mặc cảm lộ liễu nhất có thể. Áo xống cũng thế, dài ngắn đều dở, xòe cụp chẳng xong, long đong đi tìm một kích cỡ chỉ cần đỡ phản thùng đã là may mắn. Thế hệ tôi, được bom đạn đỡ đầu và tem phiếu nuôi dưỡng, không sinh ra cho những ngoại hình thiếu tương thích với phong cách cộng sản thời chiến. Nếu mặc quần đen áo cánh, mũ cối trên đầu, bùn đất dưới chân, ngang lưng thắt xà cột và tay cầm một khẩu súng dài, tôi hoàn toàn đáp ứng thẩm mỹ anh hùng ca chủ đạo thời ấy. Làm o du kích nhỏ áp giải một “thằng giặc Mỹ” béo bụng cao lênh khênh.

Từ đồng phục của “thời đại Hồ Chí Minh”, tôi nhảy một cú kỳ diệu vào đồng phục của Cộng hòa Dân chủ Đức. Ngày đầu mặc chiếc áo khoác liền mũ màu cứt ngựa, bên trong lót một lớp lông giả, tên dân dã là Kutte – áo thầy tu -, tràn ngập thiên đường xã hội chủ nghĩa châu Âu rất lạnh ấy tôi thấy mình thật xa xỉ, có lỗi với cha mẹ vẫn đang ăn bo bo ở nhà. Sáu năm tiếp theo tôi mất hẳn định hướng, dao động từ sinh viên cần kiệm có hai bộ thay đổi là được đến xé khăn trải giường nhuộm chói chang màu châu Phi hippie nổi loạn, rồi Levi’s xịn, hiển nhiên từ Tây Đức, thách thức quần bò tự chế phía Đông. Học xong về nước, tôi là một thước rưỡi phình trên loe dưới, ở giữa là một khúc mía hai đốt vàng nhạt khẳng khiu.
Dù sao, tôi đã cố gắng. Con người mới ở cả Việt Nam lẫn Đông Đức thuở ấy chỉ cấu thành từ nội dung. Tôi được nhồi rất nhiều kiến thức về bên trong để không biết gì về bề mặt. Chưa bao giờ tôi thực sự dùng áo xống làm thủ pháp dựng chân dung một nhân vật. Vả lại, văn học Việt Nam rất ít quan tâm đến trang phục. Có thể truyền thống “văn dĩ tải đạo” đã loại trừ từ đầu tất cả những gì bị coi là phù phiếm. Và bề ngoài là phù phiếm. Ngoại hình thường chỉ được phác họa bằng vài nét cách điệu, nam mặt vuông thân rộng, nữ mắt phượng mày ngài. Hoặc có thể, cho đến cách đây không lâu, người Việt quả thật chỉ sở hữu vài món phục sức không đáng để miêu tả chi tiết. Phụ nữ chân quê áo tứ thân, khăn mỏ quạ; đô thị thì khăn nhung quần lĩnh, khuy bấm áo cài. Có lần tôi chọc Nguyễn Huy Thiệp rằng trong truyện của anh, các bà quý phái mặc áo phin nõn và các cô gái sang chảnh mặc áo pun, quần gin hay quần côn là hết. Anh bảo, thế là sang chứ đòi gì nữa, dân mình có gì mặc nấy, không đóng khố chạy rông là may rồi. Các nhân vật văn chương kinh điển mà học trò Việt Nam phải thuộc lòng tính cách, giá trị tư tưởng, giá trị nhân văn và nhiều thứ giá trị tít mù khác đều tiết kiệm vải. Xiêm y của Thúy Kiều là cả một vấn nạn quốc gia. Nàng vận đồ ta hay đồ Tàu? Nam Cao cho Chí Phèo về làng với cái áo tây vàng và chiếc quần nái đen. Ông chỉ tiết lộ có thế, như đã không tiếc lời đặc tả gương mặt Thị Nở, song cũng chỉ cấp cho thị một cái áo chung chung nào đó, một cái yếm xẹo xọ và một cái váy xộc xệch màu đen. Chị Dậu trong Tắt đèn cũng chỉ được trang bị một mê nón, một dải yếm, một vuông khăn. Mị, A Phủ, bà vợ nhặt, anh Núp…, tất cả đều thuần túy là nội dung. Duy nhất Vũ Trọng Phụng cho trang phục một chỗ đứng trong Số đỏ để mổ xẻ công cuộc cải cách bề ngoài của một xã hội Á đông bảo thủ trước áp lực văn minh hóa tân thời. Song Xuân Tóc Đỏ của ông là con chó ngáp phải ruồi thời trang, khác hẳn chẳng hạn Patrick Bateman của Bret Easton Ellis, hiện hữu bằng thời trang và không gì khác ngoài thời trang, thấy việc giết một hot girl là đích đáng, bởi nàng hào nhoáng mà không nhìn ra sắc xám, xanh đen và nâu trầm của Emporio khác của Armani: một khác biệt bản thể.
Sau bao nhiêu trầm luân, tôi tưởng mình đã ổn định một gu trang phục không đến nỗi tệ. Ít nhất tôi không mặc các loại rèm cửa mà từ nhân dân đến đầy tớ của nhân dân đều mê. Hay váy áo búp bê. Hay đầm công chúa. Hay sơ-vin công sở. Hay áo vét cán bộ màu be. Hay những cành tre khóm cúc bên trên hai ống quần màu sẫm, dùng cho mọi hoàn cảnh mà không sợ thất cách. Hay những tà áo dài quết đất ngây ngất polyester kim tuyến cho những dịp cần long lanh hơn. Tôi cũng đủ trí khôn để không trình bày mình như một sưu tập nữ tính với chân váy nhún, áo bánh bèo và giày thắt nơ. Hay hợp mốt trung lưu hơn, như một xe tạp hóa leng keng, từ bộ đầm hở trọn vai u cổ ngấn trưng một bảng những chữ cái MK, LV, GG, CC, CD, CK gì đó đến chiếc mũ – mà nhà văn họ Vũ chắc phải đặt tên là mũ Đừng hỏi trong đầu tôi có gì – yểm trợ mái tóc vẫn phi-dê từ thế kỉ trước nhưng đã qua mấy chục lượt thuốc màu. Đó là chưa kể tôi không thể dù có muốn mặc như đang gọi vốn cho một tấm thân đang chờ thủ tục khởi nghiệp.
Trang phục không phải chuyện vặt, nó thay đổi hình dung của chúng ta về thế giới và hình dung của thế giới về chúng ta. Virginia Woolf nói thế, nhưng rất lâu tôi mới hiểu. Nếu không là Marcel Proust, Truman Capote, Joan Didion hay Susan Sontag thì một nhà văn sống ở xứ lạnh chỉ cần một chiếc áo len, màu đen, cổ lọ, cashmere nếu có thể, là đủ. Để phát biểu một lần rồi xong rằng tôi còn nhiều việc khác, nhà đang bận. Rằng đừng nhìn cái tôi đắp lên da thịt mà cái tôi rút từ ruột gan. Rằng tôi khiêm nhường mà kiêu hãnh, dân dã mà tinh hoa, tiện lợi mà bí hiểm, tôi tự tại và vĩnh cửu với màu đen. Song không phải trên người tôi, không phải trên người Samuel Beckett với xì-tai ăn mặc nổi tiếng chẳng kém phong cách văn chương – thậm chí đeo túi Gucci vẫn trí thức thuần chủng -, chính chiếc áo len cổ lọ ấy nhưng ở Steve Jobs đã bẻ gãy chiến thuật thời trang phòng thủ cả lúc ngủ của tôi. Nói đúng hơn, không phải nó, không phải Steve Jobs, mà tác giả của nó, Issey Miyake[1]
Ông là nụ hôn khai sáng thân thiện nhất cho những kẻ cự tuyệt mốt miếc như tôi đã từng. Còn gì khiếp đảm hơn những chiếc váy xếp li mà Mary Poppins, các mẹ nội trợ, các nàng thư ký và bà nội bà ngoại nhiều thế hệ đã chốt chặt vào một nữ tính dậy mùi của hôm qua; một nữ tính nhỏ nhoi, vô hại, đại trà; một nữ tính không dám chạm vào ai và rụt rè mong mình được chạm khẽ. Nên tôi đã sốc vì hạnh phúc trước những trang phục Pleats Please của ông. Chúng dễ dàng thành lớp da thứ hai của tôi, cho lớp da thứ nhất rất nhiều không gian chuyển động và cộng hưởng. Chúng cống hiến silhouette tối giản, chất lượng hảo hạng và chất liệu bất ngờ. Chúng đẩy tự do của người mặc đi rất xa, vì chúng lắng nghe tôi, tôi không cần lắng nghe chúng. Đó không phải là thứ thời trang chớp nhoáng vụt đến vụt đi và để lại sự thèm khát vô độ. Không dàn dựng tự sự bằng storytelling, nghệ thuật truyền đạt những thông điệp sâu xa mà thực ra chỉ là tán tỉnh kiểu mới, chào hàng ngày càng tinh vi, ngày càng ràng buộc, phét lác đủ thứ trừ tiết lộ lãi ròng. Không bồi thêm một kênh truyền thông nữa trên bề mặt. Không phủ lên con số 0 to tướng thêm một lớp sơn. Thậm chí không nhất thiết phá phách cách tân và tất nhiên không blah blah trong hội chợ của phù hoa xa xỉ. Thời trang hoàn toàn có thể khải thị.
Nên tôi đọc lại Số đỏ bằng một cặp mắt khác. Những bộ cánh xuất hiện trong tiệm Âu hóa của bà Văn Minh gần một thế kỷ trước: cái quần Hãy chờ một phút, cái coóc-sê Ngừng tay, bộ Lời hứa, bộ Chiếm lòng, bộ Kiên trinh, bộ Lưỡng lự che một bên hở một bên, bộ Dậy thì hở cánh tay và hở cổ, bộ Ngây thơ hở đến nách và hở nửa vú, bộ Chinh phục hở ngực hở đùi, bộ Nữ quyền bắt chồng khiếp sợ… có thể phản cảm; những tín đồ của chúng có thể lố bịch; song như thế vẫn ngàn lần tốt hơn cố thủ trong một thẩm mỹ cổ hủ, vừa xuề xòa dễ dãi vừa khắt khe giáo điều của xã hội phong kiến khép kín. Chiếc áo dài biểu tượng dân tộc đã định hình trong chính buổi giao thời bon chen nhăng nhố ấy, chứ không phải là sáng tạo của một Mẹ Âu Cơ hoang đường nào.
Người Việt hôm nay trọng hình thức hơn bao giờ hết. Mốt bình dân vui vẻ ve chai hàng chợ. Mốt trưởng giả diện đồ ngủ Louis Vuiton ra sân bay. Mốt hot boy chuẩn trai Hàn mặt hoa da phấn. Mốt hot girl đốt mắt, cắt khoét, bạo liệt, trong veo. Mốt trung lưu đi tìm một cá tính riêng giống hệt cá tính của người bên cạnh với H&M, Zara, Uniqlo. Mốt bà lớn phốp pháp trong áo dài tuyết nhung nhùn nhũn. Mốt ông lớn dắt bụng và đồng hồ đi chơi gôn. Mốt phu nhân hack tuổi. Mốt áo gió cho đại gia sa lưới. Mốt văn nghệ sĩ hiện đại đeo kính tròn John Lennon. Mốt về nguồn, nàng yếm sồi đầm sen, chàng áo the khăn xếp. Mốt hoài niệm thuở cách mạng còn trinh trắng, xanh thắm màu thanh niên xung phong. Lại một buổi giao thời nhố nhăng. Phô trương, ô trọc, nhảm nhí, sến súa, chảnh chọe, đua đòi, xô bồ, hời hợt và là cơn ác mộng vô tận với những tâm hồn quá thanh khiết. Song ít nhất nó cống hiến cơ hội cho một số cách tân và biểu hiện đa nguyên bề mặt. Có thể nó lừa mị, ru ngủ, che phủ bản chất bất khả thay đổi của thể chế. Song dù thế nào, tự do hình thức bề ngoài vẫn ngàn lần tốt hơn nền độc tài của những nội dung đạo lý và thuần phong mỹ tục nào đó. Phòng thủ, như tôi đã từng, là tất cả trừ tự do.
Tuần báo Trẻ, 16/2/2023
[1] Người duy nhất từng một lần mặc đồ của Issey Miyake ở Việt Nam là ca sĩ Hồng Nhung, song không được ghi nhận mà bị chê sấp mặt.
January 23, 2023
Trọn gói tâm linh
Phạm Thị Hoài
Trong các phong tục Tết, tôi ớn nhất cúng bái. Cúng ông Công ông Táo 23 tháng Chạp, cúng Tất niên chiều 30, cúng Giao thừa đêm 30, cúng Nguyên đán mồng Một, cúng Chiêu điện sáng mồng Hai, cúng Tịch điện chiều mồng Hai, cúng hóa vàng mồng Ba, cúng Khai hạ mồng Bảy, cúng Thần tài Thổ địa mồng Mười, cúng Nguyên tiêu rằm tháng Giêng. Trong vòng chưa đầy một tháng cả chục cú không cúng không được, người ta cúng cả, thuộc về gói cúng cơ bản, chưa kể gói combo những cúng rước cúng tiễn, cúng chay cúng mặn, cúng trong nhà cúng ngoài trời, cúng tảo mộ cuối năm, cúng khai trương xuất hành đầu năm, cúng cầu an giải hạn, cúng bổn mạng và các vụ cúng kiếng đền chùa lễ hội đầu Xuân. Như chạy nước rút. Chạy deadline. Chạy sô. Chạy thành tích tâm linh.
Tôi không bàn về đức tin. Tín ngưỡng là chuyện riêng của mỗi cá nhân, như khuynh hướng tình dục hay gu ẩm thực, mọi tác động từ bên ngoài đều vô ích. Sau tất cả những cấm đoán và khai sáng, người Việt mọi tầng lớp và mọi thế hệ vẫn trông cậy vào một thế giới vô hình với những thế lực siêu nhiên linh tinh mà sự vô dụng là phẩm chất ổn định nhất. Nếu thiêng thì số phận dân tộc này đã khác. Thiên Chúa giáo và Cộng sản giáo, hai tôn giáo sau này mới du nhập, vốn không dung thần thánh nào ngoài hệ thống, cuối cùng cũng phải chấp nhận chung sống với những nhu cầu tâm linh đầy cội nguồn bản sắc song cũng đầy mông muội hoang đường của người Việt.
Dân ta thờ không chừa thứ gì: thờ cóc và thờ rùa; thờ cây đa, cây gạo, cây đề; thờ nõ nường chày cối; thờ thần giữ cửa và thần giữ của; thần chém lợn, thần hót phân và thần lầu xanh mày trắng; Ông Hổ, Ông Rắn, Ông Đạo và Ông Bình vôi; Ông Mãnh Bà Cô và Ông Đùng Bà Đà; Bà Trưng Bà Triệu, Bà Hỏa, Bà Mụ và Bà Đụ Đị; Cô Bé, Cô Bơ và Cô Chín; Quan Văn, Quan Võ, Quan Âm Bồ tát và Quan Âm Thị Kính; Thánh Trần, Thánh Mẫu, Thánh giá và Thánh Gióng; Đức Khổng, Đức Ông, và Đức Chúa; Chúa Kho, Chúa Chổm và Chúa Giê-su; Vua Hùng, tướng Cao Biền, Cha Cả Bá Đa Lộc và Cha già Hồ Chí Minh; Đức Mẹ Maria và Đức Mẹ Âu Cơ; Tứ pháp, Tứ mẫu, Tứ bất tử và Tứ trụ Triều đình; Trạng Trình, Trạng Quỳnh và Trạng Lợn; ma Then, ma xó, ma nữ, ma đói và ma Hời…
Đã thờ thì phải cúng. Cúng trời cúng đất; cúng nước cúng rừng; cúng trăng cúng lúa; cúng Mẫu cúng Phật; cúng Cô cúng Cậu; cúng làng xóm, họ tộc, gia tiên; cúng đình chùa am miếu; cúng nhà cúng chợ; cúng thuyền cúng bến; cúng động thổ, xây cổng, chuyển nhà, cất nóc; cúng kỵ cúng giỗ; cúng tuần, cúng tạ mộ; cúng đầy cữ, đầy tháng, đầy năm; cúng Tơ hồng, cúng Thanh minh, cúng Vu lan báo hiếu; cúng trừ tà đuổi vong; cúng chiêu hồn thỉnh vong; cúng dâng sao yểm bùa; cúng thầy mo thầy chùa; cúng trình đồng mở phủ; cúng Sóc cúng Vọng; cúng khai trương công ty; cúng thi tốt nghiệp; cúng chuyển văn phòng; cúng trúng dự án; cúng tránh thanh tra… Sểnh ra là cúng. Nhất cử nhất động đều tiền trạm bằng sì sụp hương khói vái lạy, như mọi động thái tồn tại chỉ xác thực sau cúng phây.
Trong cái thị trường cầu cúng sôi động đó, món báng bổ “Ni dieu, ni maître” của tôi ế nhưng chưa bao giờ bị cõi trên trừng phạt. Các vị ấy rộng lượng, hoặc bỏ sót, chẳng thấy vị nào triệu tôi lên làm việc. Rốt cuộc thì một đời sống tâm linh như thế chứ không thể khác chính là thứ phù hợp nhất với người Việt. Dân ta quen khai thác những tài nguyên tinh thần lộ thiên. Thần thánh phải dễ nhớ, dễ hiểu, dễ gần, dễ điều khiển, dễ chế biến pha trộn, thậm chí dễ cóp, fake, nhái. Lễ bái phải dân dã bỗ bã, xô bồ náo nhiệt; thiếu an toàn, thiếu văn minh chút ít cũng được, cốt ở lòng thành và tính gắn kết. Hệt như những cuộc nhậu. Sớm muộn rồi văn hóa nhậu lừng danh của Việt Nam sẽ vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO.
Song tôi ghét khói nhang. Sặc mùi hóa chất Trung Quốc rẻ tiền, buôn lậu và sử dụng vô tội vạ bởi người Việt. Bát hương thờ người chết trở thành cái bẫy nguy hiểm cho người sống. Quấn chặt quanh những chân hương bụi bặm bẩn thỉu, bất di bất dịch, lưu cữu từ đời này sang đời khác mà lẽ ra phải vứt nhanh vào thùng rác không phải linh khí khỉ gió gì hết, mà đơn giản là acid phosphoric, phosphor pentoxide, diêm tiêu, mùn cưa, lưu huỳnh, bột đá và đủ thứ phế phẩm mạt hạng, có lẽ đã góp phần đẩy tỷ lệ ung thư ở Việt Nam lên hàng đầu thế giới. Mỗi dịp năm mới Xuân về là cả nước mù mịt hít khói độc. Chẳng lẽ để về nhanh hơn với tổ tiên?
Tôi cũng ghét bàn thờ ngày Tết. Đó thực sự là một siêu thị hiện đại, thánh đường của chủ nghĩa tư bản toàn cầu. Dăm bảy loại bánh mứt nguyên hộp. Rượu. Bia. Cà phê. Nước khoáng La Vie. Coke. Một rừng đào quất mai lan. Một mâm ngũ quả chắn trọn mặt tiền, điểm những trái ớt đỏ nhức mắt cầu lộc. La liệt sơn hào hải vị từ Bim Bim, Bò Cười đến Lipton. Như thể chật chỗ trong bếp thì khuân hết lên đó, dẹp bớt các cụ. Di ảnh cụ bà nép vào di ảnh cụ ông và cả hai lưu vong sang ban thờ Phật. Phật cũng xơi luôn cỗ mặn vốn dành cho gia tiên. Đĩa bánh chưng nhét góc này, bát mọc góc kia, còn lại thì kê tạm chiếc bàn, trải thêm manh chiếu, miễn là bao nhiêu lòng thơm thảo phải bày ra bằng hết. Phải ê hề như thế, phải chen chúc hỗn độn như thế mới ra bàn thờ kiểu Việt. Lý tưởng thẩm mỹ của dân ta trước sau vẫn là sự thừa mứa.
Và trước hết tôi kinh hãi cỗ cúng, thường là một tập hợp hổ lốn của những giáo điều tùy tiện. Bốn bát bốn đĩa tứ trụ bốn mùa bỗng phát lộc thành bốn bát sáu đĩa; rồi sáu đĩa sáu bát; phát đại lộc thì sáu đĩa tám bát và nhất định phải là số chẵn cho tròn trặn, số lẻ thì thất kính với thần linh. Tuyệt đối thiếu vệ sinh. Bất chấp mọi nhận thức về dinh dưỡng. Đầy những nghĩa lý khiên cưỡng. Hoa hoét sặc sỡ. Là tất cả, chỉ trừ ngon miệng. Nỗi kinh hoàng thiêng liêng ấy kéo dài suốt Tết, bưng lên dọn xuống, hết bữa này hâm lại sang bữa kia, thịt thâm sì, miến nhũn nhoét, giò chả lạnh ngắt, nem ỉu, măng đóng váng, xôi khô gãy răng, cá tôm tanh ngòm, món xào ngả sang những màu chỉ có thể gọi là rùng rợn, khó hủy diệt như nước mắm cũng bay sạch mùi. Như một chiến trường thê thảm sau vụ đánh chén của cả bầy zombie. Như thể cõi âm hâm hưởng hết ngon lành, chừa lại cho dương gian một triền miên ác mộng ẩm thực. Đỉnh cao của mâm cúng luôn là một con gà. Luộc. Nhạt nhẽo, nhàm, nhố nhăng. Gà trống mà ngày càng giống hoa hậu đi thi. Da con nào cũng óng mượt không tì vết, thần thái cùng một khuôn phép em đẹp em ngoan, em ngậm hoa hồng, em cựa dài cổ ngỏng, em vui cõng miếng tiết đỏ sậm của chính mình trên lưng và xòe cánh tiên thật khéo – dù đôi cánh ấy bị xuyên chéo và tàn bạo tọng vào họng. Chậm nhất từ mốt gà tạo dáng siêu mẫu lõa lồ, chút nghiêm cẩn cuối cùng sót lại nơi bàn thờ cũng theo hương khói bay đi. Ở cõi bên kia, thần linh và các cụ an toàn hơn, không bị dội bom tấn của lifestyle thời đại.


Lối sống thời đại cũng gắn liền với một loại hình dịch vụ vô cùng phù hợp với người Việt: dịch vụ trọn gói. Dân ta thực ra chỉ cần một hợp đồng sống trọn gói, không cần tự nghĩ, tự lo, tự làm, tự vận động, tự mơ ước, tự hỉ nộ ái ố gì cả, từ A đến Z có bề trên bao hết. Thế là sướng nhất. Đi với lý tưởng thẩm mỹ thừa mứa là lý tưởng sống nhàn. Thần linh thời nay ngày càng lắm yêu sách, quá vất vả, quá nhiều thủ tục phải chu tất, đâu phải cứ biện lễ mọn dâng lòng thành là xong. Nên các dịch vụ trọn gói tâm linh nở rộ. Muốn thần được thần, muốn thánh được thánh. Từ văn khấn soạn sẵn chỉ cần điền tên, túi Chanel hàng mã, lá sớ và set đồ cúng dường, gói hầu đồng combo quay phim chụp ảnh, đến mâm cúng đúng chuẩn tâm linh. Gì cũng có, tùy tiền và tâm. Mở ngoặc: Đồng tiền đi sau tâm là đồng tiền dại, đồng tiền đi trước tâm là đồng tiền khôn, đóng ngoặc. Thần và người đất Việt là đối tác chiến lược toàn diện muôn đời.
22/1/2023
December 26, 2022
Trước kia tôi mê bóng đá
Phạm Thị Hoài
Trước kia tôi mê bóng đá. Tất nhiên là bóng đá quốc tế. Thế hệ tôi không niệm thần chú những Thể Công, Trọng Hùng, Cao Cường, Ba Đẻn nữa. Chúng tôi, giới văn nghệ và kẻ sĩ miền Bắc, lười vận động cả óc lẫn tứ chi, chém gió bằng những cái tên danh thủ ngoại quốc mà dân chúng còn không biết đánh vần. Hòa cùng đám đông, chen vai thích cánh trước một màn hình đen trắng, nghe tiếng được tiếng mất, đồng thời đứng trên đám đông ấy ít nhất một bậc, kể vanh vách những chi tiết chỉ biết lõ mõ, là một cảm giác rất cám dỗ. Nàng Thơ của chúng tôi hình trái bưởi mặc áo da, bốn năm một lần nhằm lúc đêm khuya xuất hiện, ở lại trên dưới hai tiếng đồng hồ đến rạng sáng. Song thức canh với nàng hoàn toàn xứng đáng, hôm sau hay hôm sau nữa và cả cuộc đời còn lại đằng nào cũng không có gì để làm. Cũng chẳng có gì để nói. Nên chúng tôi vung vít những việt vị hay thậm chí liệt vị, những đội hình và vùng cấm địa, những đổ bê tông phản công giăng lưới ghi bàn, những phạt đền phạt góc, những đánh đầu đánh gót, những rê và vê, những dắt những chuyền bổng chuyền sệt, những tâng và đỡ, những chặt bóng và hất bóng, vờn bóng và lừa bóng. Chúng tôi ăn bóng đá ngủ bóng đá. Chúng tôi sút xoáy từ miệng người này sang mồm người kia. Chúng tôi thăng hoa mỗi pha thủng lưới. Chúng tôi chạm vào ngữ pháp bề sâu và chức năng tối thượng của bóng đá. Chúng tôi bàn chiến lược chiến thuật sân cỏ như thần. Như Thánh Giáp đánh trận mà không nướng quân. Bên nào thua thì chúng tôi cũng thắng vì được đứng cùng hàng ngũ, nói cùng ngôn ngữ với một nhân loại văn minh dù chẳng bao giờ có cơ hội giao tiếp. Đầu những năm tám mươi ở Việt Nam, xem bóng đá tư bản qua vệ tinh Liên Sô là hiểu biết thế giới, cấp tiến mà an toàn, không làm tổn thương lập trường giai cấp. Chủ nghĩa quốc tế vô sản nhắm một mắt trước tinh thần tứ hải giai huynh đệ túc cầu.
Tôi vẫn ở lại với bóng đá một thời gian dài nữa, khi tất cả những điều nói trên ít nhiều đã tan như tuyết của mùa Đông năm trước. Trận tứ kết Đức – Argentina năm 2006 tại nước chủ nhà, tôi còn đi vỡ tim trong một sân khán giả gầm rú dù biết rõ đó không là chỗ của mình. Tôi khó mụ mẫm tới mức đem mười một cặp giò của những người đàn ông từ một thế giới song song lạ hoắc làm bảo chứng cho dân tộc, tổ quốc và thậm chí cả số phận tôi. Tôi khó ngồi uống bia nhai lạc, chẳng làm gì ngoài tiêu thụ thành công hay thất bại của kẻ khác mà lại tự đắc như thể sự ăn theo hạng bét của mình đang cổ vũ cho những chân lý hay giá trị hạng nhất nào đó. Tôi khó bột phát nã vào đầu một viên đạn như cô gái mười tám tuổi Amelia Bolanios ở El Salvador mùa Hè 1969 khi nước này thua Honduras 0-1 ở vòng loại cho World Cup năm sau, châm ngòi cuộc Chiến tranh Bóng đá giữa hai quốc gia lân bang khiến 6000 đệ tử túc cầu nữa thiệt mạng. Cuối cùng thì El Salvador cũng rửa được nhục, lần đầu tiên góp mặt trong Giải Vô địch 1970 tại Mexico, để thua trắng, không vớt vát nổi một bàn thắng danh dự ngay từ vòng bảng. Tôi cũng khó mơ tưởng rằng vẻ đẹp của mọi nghệ thuật đủ biện minh cho sự điên rồ. Nếu một cuộc chiến Đàng Trong – Đàng Ngoài lại nổ ra thì có lẽ không vì Nguyễn-Nguyễn phân tranh, giữa những người hâm mộ văn tài Nguyễn Ngọc Tư và tín đồ của thiên tài Nguyễn Huy Thiệp. Rốt cuộc tôi chưa thấy ai rú rít, phùng mang trợn mắt, nhe nanh múa vuốt, trở về trọn vẹn bản năng thú vật để bày tỏ khoái lạc khi thưởng thức một câu thơ kiệt xuất của Nguyễn Du.
Dĩ nhiên tôi có thể mô phỏng Marx, một lần nữa biết rồi khổ lắm nói mãi, rằng bóng đá là thuốc phiện cho nhân dân, hoặc dẫn lời giải thích không thể cô đọng hơn của bậc huynh trưởng thông tuệ Jorge Luis Borges, rằng “bóng đá phổ biến, vì sự ngu si phổ biến“. Song ở vô số khía cạnh của đời mình, tôi cũng nhận thức một đằng sống một nẻo. Nicolas Chamfort, tác gia của trường phái Luân lý Pháp thế kỷ 18, tự nhận rằng mình sống một cuộc đời phản bội các nguyên tắc của chính bản thân. Ông chống đối chế độ quân chủ, nhưng lại vui lòng phục vụ một ông hoàng và một bà chúa. Ông tranh đấu cho chế độ cộng hòa, nhưng lại có rất nhiều bạn bè quý tộc đầy tước lộc của hoàng gia. Ông ghét xa hoa, chọn lối sống thanh đạm, nhưng lại thích giao du với giới giàu sang phú quý. Ông khinh bỉ mọi giải thưởng và các kiểu xưng tụng, nhưng được trao thì vẫn sướng. Ông coi văn chương là niềm an ủi duy nhất, nhưng lại tránh tiếp xúc với những văn nhân sáng giá và xa lánh các hoạt động của Viện Hàn lâm. Ông tin rằng ảo tưởng là tối cần, nhưng bản thân tuyệt không có một xu ảo tưởng. Ông coi trọng đam mê hơn lý trí, nhưng không cảm thấy mình còn một đam mê nào nữa. Bản liệt kê của tôi chắc chắn dài hơn, trong đó chuyện bóng đá có lẽ còn là vô hại nhất. Song cai nghiện đã khó, cai ngu còn khó hơn. Tôi đã gửi phần mùi mẫn đa cảm cuối cùng của mình đi cách ly, nhận về hóa đơn điều trị bệnh lãng mạn hóa một môn thể thao đại chúng. Tôi đã rút dần sự hào phóng từ mười phút đến hết, khi cái ngu của bản thân lên đồng. Tôi đã tặng mình đủ thời gian để chuyển sang chán, ghét và sau rốt gần như dửng dưng với nó, bóng đá, niềm say mê một thuở.
Dĩ nhiên bạn có thể kể ra 1000 lý do yêu, tôi chỉ có 999 lý do ghét bóng đá. Nếu cần thì ChatGPT sẽ cung cấp đủ chứng cứ và lập luận cho cả hai phía, tranh cãi hoàn toàn vô nghĩa. Với cá nhân tôi, bóng đá đã hết cả giải trí lẫn thẩm mĩ, chỉ còn là một sự nhàm chán ầm ĩ đắt đỏ. Trên sân cỏ chỉ còn là những sản phẩm chuẩn hóa cho cùng một phân khúc cao cấp của thị trường. Các giải bóng đá, các cuộc thi hoa hậu, điện ảnh Marvel, shopping mall, đều chung nguyên tắc của Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc: từ nụ cười, nét mặt, huy hiệu, com-lê đến bình trà và đường ngôi thẳng tắp đều giống nhau như lột. Cả những xăm trổ để các cầu thủ bày tỏ cá tính cũng giống nhau nốt. Vợ các chàng càng không thể phân biệt, từ hình dáng, phong cách đến túi xách, như sinh ra từ cùng một lò cloning. Các sân vận động, thánh đường của tôn giáo bóng đá, càng ngoạn mục tân kỳ càng cùng một khuôn đúc của quyền lực chung sức với lợi nhuận kếch xù. Bóng đá hiện đại có thể tráng kiện hơn, tốc độ hơn, tổ chức và kỹ thuật cao hơn, song từ lâu đã đánh mất linh hồn của thể thao thuần khiết, hóa kiếp thành những thương vụ khổng lồ, thâu tóm bởi một hệ thống tài phiệt toàn cầu ngày càng độc quyền, kiểm soát bởi một hệ thống kỹ trị ngày càng tinh xảo, triệt tiêu tưởng tượng và ngẫu hứng, loại trừ rủi ro và mạo hiểm, hy sinh hạnh phúc và niềm vui. Thời của một Johan Cruyff và các đồng đội da cam hồn nhiên cháy sáng đã vĩnh viễn lùi vào quá khứ. Bây giờ trên sân là các đa triệu phú tác chiến cho một ý chí thương mại ngày càng tàn khốc. Tôi đã không bỏ ra 90 phút xem Messi và Mbappé lần này tranh tài: Bên nào thua thì ông chủ Qatar của Paris Saint-Germain cũng khải hoàn. Chỉ cần thắng là tiền thối đổ vào bóng đá cũng thơm phức. Như Chelsea với Roman Abramovich. Biết đâu, rồi Bayern Munich một ngày sẽ về tay ông Phạm Nhật Vượng, người Việt sẽ không cần dùng chân để chinh phục túc cầu.
Tôi chia tay với bóng đá cũng vì tệ sùng bái lãnh tụ ở đó, bất kể tại các xứ dân chủ hay độc tài. Với Pep Guardiola, người duy nhất có tư duy bẻ gẫy hệ thống, bóng đá châu Âu thành công suốt một thập kỷ bằng giải tỏa cấu trúc cấp bậc, xây dựng sức mạnh tổng thể, giới hạn cơ chế siêu sao và đưa hành vi chuyền bóng – cử chỉ nguyên thủy của tình đồng đội – thành biểu tượng của phong cách Tiqui-Taca nổi tiếng một thuở. Song nhu cầu thần thánh hóa các cá nhân nổi bật thuộc về bản chất mọi hoạt động đại chúng mà trường phái bóng đá vị nghệ thuật ấy không thể đáp ứng. CR7 là thần tượng điển hình nhất của thời đại mà bóng đá càng băng hoại và mục ruỗng thì công chúng càng đặt cược vào một người đàn ông có cái Tôi vĩ đại, nam tính phô phang, thu nhập siêu nhiên và đôi chân phi thường. Tôi có cảm tình với Messi hơn, người càng chín càng tối giản. Bình thản. Trầm tĩnh. Không lăng xăng trình diễn. Không phí công khi không cần thiết. Thậm chí như vô can, nhưng đã vào cuộc thì có thể xuất thần và đóng vai trò quyết định. Song bất hạnh cho bóng đá, hôm nay Hoàng đế Messi vừa lên ngôi.
Văn chương vẫn còn may mắn: văn chương không có vua. Chúng ta chưa phải chứng kiến đội tuyển văn học Pháp đấu với đội tuyển văn học Argentina mà mọi ống kính chỉ đặc tả những sợi tóc lơ thơ rủ xuống gương mặt trí thức bơ phờ của siêu sao Michel Houellebecq. Vẫn Jorge Luis Borges đã khuất của văn học Argentina ra lời phán quyết, rằng phát minh ra bóng đá là tội ác lớn nhất với nhân loại của nước Anh. Trong truyện ngắn viễn tưởng “Esse Est Percipi” viết năm 1967, ông đã thấy hiện thực bóng đá chỉ còn là một hư cấu thuần túy, do nhân viên kỹ thuật chế tạo trong phòng thu và diễn viên khoác đồng phục thể hiện trước ống kính. Tất cả chỉ là nghệ thuật PR cho một đại chúng muốn được lừa phỉnh.
18/12/2022
Tuần báo Trẻ, 22/12/2022
October 27, 2022
Nếu Cách mạng Tháng Mười là một tin đồn
Phạm Thị Hoài
Ngày 18/10/1917, Maxim Gorky viết trên tờ Sống Mới (Новая Жизнь) về tin đồn là hai ngày tới phe Bolshevik sẽ ra tay. Ông hình dung ngay “một đám đông vô tổ chức, bản thân mình muốn gì còn không biết, sẽ ào ra đường, kéo theo một lũ phiêu lưu, trộm cướp và giết người chuyên nghiệp để đi làm công cuộc lịch sử là cách mạng Nga.” Ông đoán, hẳn cũng như trong vụ bạo loạn thất bại hồi đầu tháng Bảy, rồi tất cả những bản năng tăm tối của một đám đông đã thấm đẫm độc ác, hằn thù và khát máu sẽ lại được thổi bùng, và khi sự ngu si thú vật xổng chuồng thì con người chỉ còn đè nhau ra chém giết. Ông đòi Trung ương Đảng Bolshevik phải lên tiếng chặn đứng tin đồn khủng khiếp ấy.
Nếu Cách mạng Tháng Mười là một tin đồn, có lẽ chiến tranh Ukraine bây giờ đã không xảy ra, nhận định của triết gia Nga Semyon Frank rằng mọi tai họa của thế kỷ 20 khởi nguồn từ biến cố ấy sang thế kỷ này vẫn còn hiệu lực. Song những người Bolshevik chẳng những không cải chính mà trên tờ Sự Thật (Pravda), Stalin còn đắc chí xỉa xói: Gorky và đám trí thức yếu bóng vía ở Sống Mới muốn gì? Muốn biết trước ngày khởi nghĩa để nhanh chân vù sang Phần Lan chắc? Đừng cậy danh tiếng, cách mạng Nga chẳng nghiêng mình trước tên tuổi vĩ đại nào đâu. Đúng một tuần sau, Chiến hạm Rạng Đông nổ pháo lệnh tấn công Cung điện Mùa Đông, hiện thực chỉ chậm hơn tin đồn năm ngày.
Maxim Gorky, con chim báo bão của cách mạng vô sản, không “vù” đi đâu mà có mặt ở cả hai tâm bão, Petrograd và Moskva, trở thành chứng nhân của “mười ngày rung chuyển thế giới” từ một góc nhìn khác. Trong gần 60 bài báo nhan đề “Những suy tư bất hợp thời” nóng bỏng, ông tiếp tục kịch liệt phê phán cuộc cách mạng Bolshevik, thẳng thừng vạch mặt chỉ tên Lenin, người mà ông từng đồng hành và gắn bó, cho đến khi tờ Sống Mới bị Lenin đích thân ra sắc lệnh cấm cuối tháng Sáu 1918. Ông viết: “Lenin, Trotsky và đồng đội đã bị ngấm nọc độc hủ bại của quyền lực; thái độ ô nhục của họ về tự do ngôn luận, tự do cá nhân và mọi quyền tự do khác, vốn là lý tưởng tranh đấu của nền dân chủ, đã chứng tỏ điều đó. Những kẻ cuồng tín mù quáng và đám phiêu lưu bất lương đã vội vàng phi thẳng đến cái gọi là ‘cách mạng xã hội’. Nhưng trong thực tế, đó là con đường dẫn đến vô chính phủ, dẫn đến sự hủy diệt giai cấp vô sản và cách mạng vô sản. Trên con đường ấy, Lenin và đồng đội đã sẵn lòng chấp nhận mọi tội ác, như vụ thảm sát ở Petrograd, vụ hủy diệt ở Moskva, việc xóa bỏ quyền tự do ngôn luận và hàng loạt vụ bắt bớ. Lenin chỉ theo đuổi một cuộc thử nghiệm trên da thịt của giai cấp vô sản và bằng máu của giai cấp vô sản, chỉ muốn đẩy tinh thần cách mạng của họ đến tột cùng để xem điều gì sẽ diễn ra.” Nhiều lần ông nhấn mạnh rằng những gì tinh túy nhất của giai cấp vô sản sẽ bị nướng trụi trong cuộc thử nghiệm tàn bạo đó, song nghiêm trọng hơn cả là trong một thời gian rất dài, sau thất vọng ê chề về lý tưởng cộng sản cao đẹp, giai cấp tiên phong của dân tộc Nga sẽ mất toàn bộ ý chí và viễn kiến về tương lai. Ông khẩn thiết kêu gọi công nhân Nga đừng giơ đầu chịu báng, đừng để mình bị lôi kéo vào cuộc cách mạng giả trá đang diễn ra, vì đó chỉ là cú phóng hết ga lao xuống vực thẳm của một nhóm phiêu lưu cuồng tín bất chấp cả danh dự lẫn sinh mệnh của người vô sản. Và trước hết, đừng đặt lòng tin vào Lenin, bởi ông ta không phải là một nhà ảo thuật quyền năng mà chỉ là một vai hề máu lạnh, kẻ quả thật có những phẩm chất xuất chúng nên đã tự cho phép mình cái quyền chơi một ván cược mạo hiểm trên lưng dân Nga, một dân chúng mà ông ta – vốn xuất thân quý tộc – chưa từng cùng cảnh ngộ, chỉ biết qua sách vở nhưng rất hiểu cách chiếm đoạt tâm hồn họ, xách động họ, quất cho những bản năng thú vật của họ lồng lộn, bởi lẽ cách lôi kéo người Nga dễ nhất là cho họ quyền được đê tiện. Người Nga mà 85% là nông dân cùng quẫn, u mê, nát rượu, nóng nảy, gian trá và chỉ mơ thành Kulak không thể là đồng minh mà ngược lại, chính là kẻ đào mồ chôn cuộc cách mạng của giai cấp vô sản. Ván cược lịch sử của những người Bolshevik chỉ làm ô danh giai cấp vô sản, đẩy nước Nga vào cơn ác mộng của đói khát, bạo lực, tù đày, cấm đoán, kích thích tất cả những thú tính kinh hoàng nhất mà người Nga tích tụ dưới thời Nga hoàng và triệt tiêu tất cả sức mạnh trí tuệ và năng lượng đạo đức của đất nước này. “Lenin không phải là người được lịch sử giao phó sứ mệnh xới tung cái tổ kiến tồi tàn hỗn loạn mà thế giới gọi là nước Nga này. Ông ta chỉ dùng nước Nga làm mẻ vật liệu đầu tiên cho một cuộc thử nghiệm toàn thế giới.”
Đó là những nhát búa tạ, không phải “một vài bất đồng nhất thời” như sau này các linh mục của giáo phái văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa – mà Gorky là giáo hoàng – khéo léo né tránh. Khi Khủng bố Đỏ dâng cao, hàng loạt nhân vật danh tiếng trong vòng thân quen nhất của Gorky bị bắt và hành quyết, đồng thời xung đột trong mối quan hệ đầy thăng trầm giữa Gorky và Lenin cũng lên tới đỉnh cao, nhà văn cuối cùng phải ra đi để nhà độc tài ở lại. Nhưng Gorky không bị cưỡng bức di tản, dồn lên năm chiếc tàu mà sau này nổi tiếng dưới tên “Đoàn tàu Triết gia”, mỗi người được mang theo hai bộ quần áo, như hàng trăm trí thức Nga khác, trong đó có các triết gia Ivan Ilyin, Nikolai Berdyaev, Lev Karsavin, Semjon Frank, Nikolay Lossky… Ông cũng không chọn lưu vong như 1,2 triệu người Nga khác, trong đó có những tên tuổi nay thuộc về di sản văn hóa thế giới: Vladimir Nabokov, Isaiah Berlin, Ivan Bunin, Roman Jakobson, Wassily Kandinsky, Marc Chargall, Sergei Rachmaninoff, Alexander Alekhine, Sergei Diaghilev… Ông ra đi với danh nghĩa chữa bệnh ở những vùng nghỉ dưỡng nổi tiếng tại Đức, Tiệp và Ý, một phần do Vụ Ngoại thương Sô-viết đài thọ, giao lưu rộng rãi với giới văn nghệ cánh tả phương Tây và ấm áp trong vòng tay của gia đình cùng người tình Moura Budberg, người đàn bà bí ẩn – cho đến bây giờ không ai rõ vai trò của bà trong cả cuộc sống lẫn cái chết của hai văn hào lẫy lừng mà bà lần lượt và thậm chí có lúc đồng thời chung sống: Maxim Gorky và H.G. Wells -, có thể là một Mata Hari phiên bản Nga, điệp viên ba mang của cả Liên Sô, Anh và Đức.
Sau bảy năm tránh bão, Gorky về nước. Lenin đã là một xác ướp trong lăng và hàng ngàn tượng đài bên ngoài. Vợ ông, bà Krupskaya kiên trung, đã đưa xong Platon, Descartes, Kant, Schopenhauer, Nietzsche, Dante, Cervantes, Talmud, Kinh Cô-ran và Kinh Thánh vào danh mục sách cấm để các thế hệ tương lai không còn bị đầu độc. Cách mạng đã nuốt xong bầy con đầu và đang chờ lứa sau mau lớn. Trotsky đã bị trục xuất. Xã hội Sô-viết đã nằm im dưới gót ủng của Stalin, phần còn chút cựa quậy sẽ đơn giản là những con số trong mỗi ngày trên dưới 1000 án tử hình của hai năm Đại Khủng bố sắp đến.
Song Gorky về nước, nhận Huân chương Lenin, biệt thự ở thủ đô và dacha ở ngoại ô, vào Trung ương Đảng, trở thành Chủ tịch Hội Nhà văn Sô-viết, khai sinh dòng văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, lĩnh xướng dàn đồng ca cách mạng, dẫn đầu cuộc đấu tranh chống mọi tư tưởng phản động trong văn nghệ, và làm bệ cho những tham vọng bác học của Stalin, bạo chúa mê lý luận hàn lâm và nghệ thuật. Tai họa của giới văn nghệ sĩ trí thức ở phần lớn các quốc gia cộng sản gắn liền với sở thích học giả và thơ ca đàn sáo tranh pháo của các nhà lãnh đạo chính trị tầng cao. Buổi gặp mặt tròn 15 năm sau Cách mạng Tháng Mười, ngày 26/10/1932, tại dinh thự lộng lẫy của Gorky ở Moskva – một trong những công trình Art Nouveau đẹp nhất của kiến trúc sư tài năng Fyodor Schechtel, thiết kế riêng cho gia đình triệu phú Ryabushinsky, một doanh nhân và chính khách tư sản đã đào thoát ra nước ngoài – đi vào lịch sử trong sự mộ điệu quái gở ấy. Những đại diện sáng giá nhất của văn đàn Sô-viết ngồi bên bàn ăn phủ khăn thắp nến, kính trọng và run sợ, nguyền rủa và biết ơn, và trên hết là ghi lòng tạc dạ lời chỉ đạo thân mật của đấng cứu thế trong bộ quân phục nền xanh nẹp đỏ. Stalin yêu cầu các nhà văn phải là những “kỹ sư tâm hồn“, vì “sản xuất tâm hồn quan trọng hơn hẳn sản xuất xe tăng, các đồng chí rõ chưa?“. Đúng thôi, xe tăng khi đó chưa cần. Sản phẩm nổi tiếng nhất của chuyên chính vô sản Sô-viết thập niên hòa bình ấy là hệ thống Gulag. Không ai khác, chính Gorky đã đập tan mọi tin đồn độc địa ở phương Tây về quần đảo địa ngục ở thiên đường vô sản bằng một phóng sự hân hoan khi đến thăm trại cải tạo điển hình ở Solovski, nơi “các tù nhân được hưởng một cuộc sống tuyệt vời và một sự giáo dục tuyệt vời“, nơi những phần tử lầm đường lạc lối nhờ lao động mà phục hồi nhân phẩm và trở thành những con người mới của chế độ mới. 30000 tù nhân hạnh phúc đó đã bỏ mạng cho công trình vinh danh Stalin, Kênh Bạch Hải-Baltic vĩ đại và vô dụng mà cũng chính Gorky không tiếc lời ca tụng. Ông đã góp phần không nhỏ vào nạn sùng bái Đại Nguyên soái. Cả cái chết bí ẩn của ông cũng có ích cho vị lãnh tụ. Nhóm đối thủ chính trị cuối cùng của Stalin bị thanh trừng trong Vụ án Moskva số 3, trong đó có giám đốc mật vụ khét tiếng Yagoda, vì tội giết hại thần tượng văn học Sô-viết; thư ký riêng và hai bác sĩ của Gorky cũng nhân tiện bị xử bắn. Ông yên nghỉ trên Quảng trường Đỏ, bên bức tường Điện Kremli, cách Lenin không xa, cùng dãy với bà Krupskaya tại nghĩa trang tưởng niệm những nhân vật lỗi lạc nhất của nhà nước Sô-viết.
Trong cáo phó trên tờ báo của Mặt trận Dân chủ Đông Dương ngày ông qua đời, 18/6/1936, nhà lý luận mác-xít tiên phong Hải Triều gọi Maxim Gorky là “ông thầy tinh thần nhân loại tương lai“. Không nhà văn thế giới nào quyết định diện mạo chính thống của nền văn học Việt Nam như ông, con chim ưng bay lên từ đáy xã hội Nga hoàng để hạ cánh ở chóp bu bộ máy cai trị Nga Sô-viết. Nabokov coi ông là một tác giả không đáng để ý của những tác phẩm hạng hai, nhưng là một hiện tượng ồn ào khá thú vị trong cấu trúc xã hội Nga. Chekhov ưu ái hơn, tin rằng tác phẩm của Gorky rồi sẽ bị lãng quên, nhưng con người Gorky thì ngàn năm sau khó ai không nhớ. Ông quả thật là nhân vật đáng nhớ nhất trong cuốn tiểu thuyết larger than life là chính cuộc đời mình, thấu kính bi tráng cho ánh sáng và bóng tối của một thời đại khốc liệt, mở ra từ Cách mạng Tháng Mười. Nếu sự kiện ấy là một tin đồn, xã hội và văn học Việt Nam hôm nay, 105 năm sau, sẽ hoàn toàn khác.
Tuần báo Trẻ, 27/10/2022
Phạm Thị Hoài's Blog
- Phạm Thị Hoài's profile
- 31 followers
