Huy Đức's Blog
October 2, 2019
BÁO PHỤ NỮ NÊN CỦNG CỐ CỨ LIỆU CHO LOẠT BÀI BÀ NÀ, TAM ĐẢO
Mãi tới hôm nay tôi mới có thể đọc kỹ loạt bài về Bà Nà, Tam Đảo của báo Phụ Nữ; càng đọc kỹ càng hết sức băn khoăn.
Tôi thuộc thành phần khá cực đoan trong vấn đề bảo tồn thiên nhiên. Càng nơi danh lam thắng cảnh, theo tôi, càng ít có bàn tay con người càng tốt. Tôi cũng cho rằng, các đại gia của VN cũng cần tập làm quen với việc bị báo chí và công chúng chỉ trích. Những Vin, Sun, FLC… cho dù đóng góp thế nào thì quý vị cũng đều là những thế lực. Bất cứ thứ quyền lực nào cũng cần được chế ước.
Phải công nhận, báo Phụ Nữ và phóng viên Thu Trang rất là dũng cảm. Tuy nhiên, báo chí nhà nước điều tra rất khác với một NGO tuần hành bảo vệ môi trường. Dũng cảm thôi chưa đủ.
Khác với việc phanh phui một công trình xây trộm. Những dự án của Sun chắc là đã được cấp phép bởi chính quyền. Khi báo Phụ Nữ cáo buộc những công trình đó sai phạm cũng đồng nghĩa với việc cáo buộc cả sai phạm của chính quyền các cấp. Chỉ ra sai phạm của chính quyền là càng cần thiết nhưng cáo buộc bất cứ ai cũng cần có lập luận và bằng chứng rõ ràng.
Tôi vẫn nghĩ là trước khi thâm nhập địa hình, các phóng viên đã phải có trong tay dự án, quyết định phê duyệt dự án và đánh giá tác động môi trường. Đấy là những căn cứ tối thiểu mà loạt bài này phải có. Chỉ khi đặt ba tài liệu này bên cạnh quy hoạch Bà Nà, Tam Đảo mới chỉ ra được chính quyền và doanh nghiệp sai ở đâu.
Rất tiếc là loạt bài này không thấy đề cập gì đến các tài liệu ấy (Các bạn có một vũ khí khá lợi hại với mạng xã hội là sư Toàn; nhưng ông sư “xin tí khí” này giờ đây lại được nhắc nhiều hơn chứ không phải các cáo buộc chính của các bạn ở Bà Nà, Tam Đảo).
Công chúng đã dành cho các bạn nhiều sự ủng hộ. Nhưng tôi thì thấy tờ báo không chỉ cần công chúng vỗ tay. Với loạt bài này, báo Phụ Nữ có thể sẽ phải đối diện không chỉ với doanh nghiệp mà cả chính quyền nhiều cấp. Các bạn nên ngồi lại củng cố các cứ liệu đang có để bảo vệ mình thay vì sử dụng uy tín của “Bác Hồ” như bài viết gần đây của bà Tổng biên tập báo.
PS: Đầu thập niên 1990, tôi viết nhiều bài trên báo Tuổi Trẻ phản đối việc xây dựng sân golf Thủ Đức trên phần đất được quy hoạch trồng rừng phòng hộ. Tôi nhớ là cho dù điều tra cặn kẽ, trình bày khá chặt chẽ, phỏng vấn nhiều chuyên gia và cả nhà đầu tư. Nhưng, cuối cùng như ta thấy, sân golf được xây chứ không phải rừng phòng hộ. Mong các đồng nghiệp giờ đây có đủ bằng chứng bảo vệ các cáo buộc của mình để may mắn hơn những gì tôi làm gần 30 năm trước.
September 26, 2019
AI THẮNG Ở CAMPUCHIA (1979, 1989, 2019)
Sáng nay, cầm tờ Tuổi Trẻ mà bần thần. Ba mươi năm trước, Tuổi Trẻ cử nhiều tốp phóng viên đến CPC tường thuật cuộc rút quân (về mặt lý thuyết là) cuối cùng của “Quân Tình nguyện” Việt Nam. Tôi không đi một mạch từ Siem Riep về Phnom Penh, qua Mộc Bài như Binh Nguyên, mà leo lên trực thăng của tướng Đỗ Quang Hưng lật sang hướng Kampong Cham.
Tối hôm ở Kampong Cham, sau một cuộc chia tay đầy tâm trạng với vài sỹ quan cao cấp được cử ở lại trong vai trò “lãnh sự”, tôi về mắc võng ngủ bên cạnh tướng Nguyễn Nam Hưng, chứng kiến ông lục cục một mình với gói mì tôm cho bữa trễ. Hướng rút quân tôi theo có rất ít báo chí và tuyên huấn. Tôi viết cho Tuổi Trẻ hai bài: “Bữa Cơm Người Lính” và “Những Người Lính Không Đi Qua Hoàng Cung”.
Hôm nay, bao chí ta lại nói rất nhiều về công lao của “Quân Tình nguyện”. Tôi hỏi những người bạn ở CPC thì được cho hay: “Không biết TVK (Truyền hình Quốc gia CPC) có nói gì không, còn hãng Thông tấn Nhà nước AKP, Ras Smei Kampuchea Daily (Nhật báo tiếng Khmer lớn nhất CPC, thường được coi là cái lưỡi của CPP), đến các báo tiếng Anh như Khmer Times, Phnom Penh Post… không có dòng nào về ngày rút quân tình nguyên VN 30 năm trước!
Khmer Times còn đưa tin Bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc cam kết bảo vệ các lợi ích của CPC. Các lãnh đạo chủ chốt như Heng Samrin, Sar Kheng… đang ở nước ngoài”.
Trên tường FB nhà Hun Sen chỉ nói đến lễ Phchum Ben (giống ngày xá tội vong nhân của VN). Chỉ Facebook của TLS Việt Nam tại Battambang có ghi nhận “Đảng bộ CPP, Hội đồng, Ủy ban tỉnh và BTL quân khu V quân đội Hoàng gia CPC tổ chức trang trọng lễ cầu siêu tưởng nhớ những chiến sỹ CPC và VN đã hy sinh trong sự nghiệp đánh đổ chế độ diệt chủng và bảo vệ đất nước CPC”. FB của các nơi có cơ quan ngoại giao VN khác ở CPC không thấy nói gì.
Cái chính là mình giúp họ mà họ – người hàm ơn – không nói gì trong khi chỉ có ta tán tụng ta; chứ, diễn văn xủng xoảng, cờ hoa mà làm gì. Cho đến giờ này không người Việt nào biết chính xác bao nhiêu chàng trai đã hy sinh ở CPC, bao nhiêu người trở về tàn phế… dù họ đã gửi hàng triệu lượt cha anh, con cháu tham chiến từ 1977 – 1989.
Sau chiến tranh, trong cơ chế đòi hỏi sự đồng thuận của ASEAN, chúng ta chưa bao giờ có được sự ủng hộ của Hun Sen, một khi quyền lợi của VN hoặc của ASEAN xung đột với Bắc Kinh. Nhưng đau đớn hơn, chúng ta đã không bảo vệ được người Việt sinh sống lâu đời ở nơi mà người Việt chúng ta đổ rất nhiều xương máu.
Không kể nhiều chính sách đơn lẻ khác, đầu năm 2016, sau nhiều năm đàm phán, chính quyền Hun Sen ban hành Nghị định 129 mà hậu quả của nó là nhắm vào người Việt ở CPC.
Theo Nghị định này, 90 nghìn người Việt mà phần lớn sinh sống hàng đời ở CPC nhưng không có giấy tờ CPC bị coi là cư ngụ bất hợp pháp, bị trục xuất về VN; 70 nghìn người Việt đã có chứng minh nhân dân, sổ gia đình, hộ chiếu CPC, giấy tờ nhà, nhiều người chỉ biết tiếng Khmer… bị coi là ngoại kiều, giấy tờ đang có bị tịch thu và phải đóng 62 USD để làm “thẻ ngoại kiều”.
Lúc đó, VN chỉ có 160 nghìn người – phần lớn sinh ra ở CPC – trong khi người Hoa tràn ngập (con số ước tính phải lên hàng triệu, chủ yếu đến CPC sau chiến tranh) với hơn 5 tờ nhật báo tiếng Hoa và hàng trăm trường học. Kết quả này là không có gì bất ngờ, các tín hiệu xấu đã xuất hiện không lâu sau khi quân đội VN rút hết.
Sáng 13-11-1991, tôi có mặt trong khuôn viên sứ quán VN ở CPC. Đại sứ Ngô Điền – người mà Hun Sen vẫn thường leo lẻo là “người thầy vĩ đại của tôi” – bị buộc phải rời Phnem Penh bằng đường bộ. Không có bất cứ một quan chức CPC nào tới chào. Hai người phụ nữ Khmer Krom nấu ăn cho sứ quán phải quấn Sa rông ra tặng hoa [tôi chụp tấm hình này, hy vọng kho ảnh Tuổi Trẻ của anh Nguyễn Công Thành còn giữ].
Trưa 14-11-1991, Hun Sen được đưa trở lại Phnom Penh trên chuyến bay 737 của Bắc Kinh. Trong khi đại sứ Ngô Điền âm thầm ra khỏi CPC thì “học trò” của ông xuất hiện ở cửa máy bay cùng ông hoàng Sihanouk giữa biển cờ hoa tràn ngập.
Cuộc chiến tranh của VN ở CPC trước hết là tự vệ, sau đó là để HN sửa chữa một sai lầm (góp phần quan trọng giúp Khmer Đỏ lên cầm quyền); tất nhiên, đồng thời cũng ngăn chặn tội ác diệt chủng của Khmer Đỏ. Những người lính như chúng tôi nhẹ nhõm rất nhiều khi thấy sự yên bình và thịnh vượng ở CPC. Hiếm có cuộc viễn chinh nào kể cả của các siêu cường thành công như thế.
Nhưng, 7-1 hay những ngày như thế này, tôi tin là linh hồn của những người lính VN sẽ thanh thản hơn nếu nhà nước ta tôn trọng độc lập nhưng vẫn phải bảo vệ được đồng bào mình ở CPC; thay vì, trong khi người CPC chẳng thèm nói gì mà ta thì cứ làm ầm ĩ.








September 24, 2019
ĐỪNG HOÀNH TRÁNG CHUYÊN CƠ NỮA
Đồng ý với anh Trần Quốc Quân, có khi bà Ngân không biết hết những người đi cùng mình. Nhưng vấn đề “quốc thể” ở đây không chỉ vì có lại mà còn vì cái chuyên cơ của những người như bà Chủ tịch.
Tại sao bà Ngân (và những người trong bộ tứ) lại dùng hẳn một chuyên cơ cho các chuyến công du. Những người thực sự đi làm việc cùng họ có khi không đủ để xếp một khoang hạng Nhất. Có chuyên cơ thì phải bán các suất dư. Rất nhiều doanh nhân chỉ tìm cơ hội để có vài “pô” hình và thành phần chuyến công du còn là “business” của Văn phòng và cả một vài cơ quan phối hợp [Chứ cái thời phải đu theo lãnh đạo để “marketing” đã “xưa hơn cả Diễm” rồi].
Năm 1997, trong khi nhiều nguyên thủ bay tới New York bằng khoang thương mại thì tướng Lê Đức Anh – đang là Chủ tịch một nước dân tình chưa đủ ăn – đã đi họp Liên Hợp Quốc bằng một chuyến chuyên cơ. Chỉ riêng tiền thuê sân đỗ đã là một con số khổng lồ với ngân sách của VN thời ấy. Ngay cả những nguyên thủ của những quốc gia G7, như Tony Blair hay bà Angela Merkel, cũng từng dùng máy bay thương mại và thủ tướng Lý Hiển Long cũng từng bay máy bay giá rẻ. Thì, lãnh đạo VN ta vẫn chuyên cơ cho không chỉ một người mà còn “tam, tứ trụ”.
Trong nhiều tình huống cần thiết, nguyên thủ sử dụng một chuyến bay riêng để công việc trôi chảy hơn thì không sao. Nhưng, lãnh đạo một quốc gia đi vay mà càng tiết kiệm thiên hạ mới càng nể phục. Riêng về an ninh thì đừng lo. Dân thì quý vị không sợ rồi, còn kẻ thù của VN thì yên tâm đi, chúng chỉ muốn thả sâm cho quý vị.
PS: Theo những thông tin mà chúng tôi vừa cập nhật thì đoàn DN đi cùng Chủ tịch QH này không phải do VCCI tổ chức. Các đoàn của Quốc Hội thường không kết hợp với VCCI mà VP Quốc hội làm với Bộ KHĐT; Bộ KHĐT (MPI) lại tổ chức đoàn bằng cách thuê Viettravel. Trước đây, các đoàn doanh nhân theo chuyên cơ thường do VCCI lập, có kiểm tra của cơ quan An Ninh. Từ sau nhiệm kỳ của thủ tướng Phan Văn Khải (2006) thì doanh nhân tháp tùng các chuyên cơ thủ tướng được giao cho Cục Đầu tư Nước ngoài của MPI. Theo chúng tôi, một cơ quan hành pháp chính trị cấp bộ (như MPI) thì chỉ nên tập trung vào nhiệm vụ chính của mình là làm chính sách thay vì tham gia làm “tour” cho doanh nghiệp, cho dù đó là tour đi cùng nguyên thủ.
September 14, 2019
NHỮNG TRÁI ĐẮNG CẦN CHO NGƯỜI VIỆT
Đọc “Tâm Lý Người An Nam” rất dễ bị cay cay sống mũi. Cái cách một ông Tây thực dân nói về phần lớn là những điểm tiêu cực của dân ta không khỏi khiến cho lòng “tự ái dân tộc” đùng đùng nhảy dựng. Nhưng, bình tâm trở lại, đủ sức nhận biết căn nguyên của những phản ứng ấy là mặc cảm tự ty, sẽ thấy cuốn sách rất cần cho người Việt.
Paul Giran đến Đông Dương năm 1899, từng làm tham biện rồi công sứ ở Kiến An (phó), Phan Rang (chánh) rồi ủy viên chính phủ ở Vien Chăn cho tới năm 1921. Tác giả nói rất thẳng thừng, nghiên cứu này nhằm hiểu để “cai trị tốt một dân tộc”. Tuy nhiên, cuốn sách không được viết theo lối cưỡi ngựa xem hoa của một ông quan mà, có lẽ là công trình đầu tiên, nghiên cứu về người Việt rất là khoa học.
Những đánh giá của Paul Giran về người Việt từ đầu thế kỷ 20: “cảm tính, miệt thị thân thể… không lười biếng nhưng làm việc không hào hứng; cần một việc của người châu Âu thì phải có 4 culi và một người trông coi…”, có lẽ không phải là đã xa lạ lắm với người Việt trong thời hiện đại. Thế hệ hiện nay có lẽ không phải là không còn nhìn thấy “sự dơ dáy khủng khiếp: heo vịt thong dong đi lại; một cái ao gần nhà vừa là nơi để tắm, trồng rau muống và làm cầu tiêu…”
Và với nhận xét này, “không có những nhà tư tưởng và không có những nhà phê phán, không có cái gọi là nhóm người cao quý dám nói lên sự thật…”, thì rõ ràng là vẫn vô cùng thời sự.
Cuốn sách xuất bản tại Pháp năm 1908, vậy mà mãi gần đây mới được Nhã Nam cho dịch ra tiếng Việt. Những nghiên cứu của Paul Giran có thể làm cho những kẻ đạo đức giả có cơ hội nhân danh quốc gia dân tộc. Nhưng, với đa phần người Việt, tôi tin, cho dù không đồng ý với rất nhiều nhận xét của Paul Giran thì các đặc tính mà ông chỉ ra vẫn có tác dụng như một chén thuốc đắng cần với người Việt hơn là đường mật.
[image error]
August 31, 2019
LỊCH SỬ CHIẾN TRANH VIỆT NAM QUA CUỐN SÁCH VỀ MỘT NGƯỜI CHA
Chỉ là cuốn sách của con gái viết về cha nhưng đọc kỹ và nhìn lại thì thấy chưa có một công trình nghiên cứu nào được xuất bản ở Việt Nam trình bày lịch sử chiến tranh ở “bên thắng cuộc”, cả về chi tiết và mức độ khái quát, hấp dẫn và có quy mô như thế.
Có lẽ, vì người cha ấy, tướng Cao Văn Khánh, là một vị tướng tài ba, vừa tham mưu ở tầm chiến lược vừa trực tiếp cầm quân ở những chiến dịch quan trọng nhất; ông nằm trong số rất ít các vị tướng đóng vai trò quyết định cho chiến thắng chung cục của QĐND VN trong cả hai cuộc chiến tranh: chống pháp và thống nhất hai miền Nam – Bắc. Có lẽ, vì con gái ông, PGS.TS Cao Bảo Vân, là một nhà khoa học thực sự (chị tốt nghiệp đại học Sinh Hóa ở Lomonosov, thạc sỹ và tiến sỹ Dược khoa ở Pháp).
Lựa chọn thành công nhất của Cao Bảo Vân là dù rất yêu cha nhưng cuốn sách không phải là một tự truyện hay chỉ viết về cha mà là một công trình khảo cứu đồ sộ.
Chắc chị hiểu rằng, tầm vóc của tướng Cao Văn Khánh chỉ có thể được đánh giá đúng khi đặt bên cạnh các chiến tướng khác. Vai trò của tướng Cao Văn Khánh chỉ có thể được hiểu một cách đầy đủ khi “quan sát” ông trong một lực lượng vũ trang, một lực lượng không chỉ gồm “34 chiến sỹ” ban đầu của tướng Giáp mà còn được bổ sung bởi “43 học viên” của Trường Thanh Niên Tiền Tuyến, trường quân sự đầu tiên của Việt Nam hiện đại, do Chính phủ Trần Trọng Kim lập ra tháng 5-1945.
Có lẽ chưa ai cần mẫn đọc kho tư liệu về các cuộc chiến tranh được xuất bản ở trong nước và ngoài nước như Cao Bảo Vân. Có lẽ ít ai thu thập được các hồi ký, đặc biệt là các nhật ký, thư từ… của các sỹ quan QĐND VN phong phú và giá trị như chị.
Không ngạc nhiên khi chị, người có kỹ năng của một nhà khoa học thực chứng, đã xử lý rất thành công các tư liệu ấy. Nhưng rất ngạc nhiên, khi cuốn sách còn cho thấy tác già là một người am tường lịch sử quân sự cùng với khả năng tư duy hệ thống.
Cho dù, có không ít trường hợp tham lam (sẽ hợp lý hơn khi giữ ở mức 500 trang thay vì tới 800 trang); nhiều chỗ lặp lại những tư liệu không còn tranh cãi và vẫn còn quá “chính thống” trong cách nhìn nhận một số trường hợp lịch sử như khi nói về tổng thống Ngô Đình Diệm, về “tổng tuyển cử” và về “Giáng sinh B52…”; Nhưng, cuốn sách vẫn rất thành công nhờ cách tiếp cận với phần lớn các sự kiện là mới mẻ với nhiều tư liệu được chính thức công bố lần đầu.
Bằng cách trích dẫn khéo léo, nhiều trường đoạn mới về các sự kiện lịch sử được nói nhiều tới mức tưởng như đã vô cùng nhàm chán như Điện Biên Phủ, Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào, vẫn được viết hấp dẫn khiến ta đọc khó dừng lại được. Cuốn sách, tuy nói không nhiều nhưng vẫn làm sáng tỏ một khúc quanh định mệnh trong lịch sử Việt Nam. Đó là thời kỳ sau 10-1949, Mao thắng Tưởng trong cuộc nội chiến giành quyền ở Trung Hoa Đại Lục.
Sau chuyến đi bí mật của Hồ Chí Minh sang Bắc Kinh và sau đó là sang Moscow (1950), QĐND VN có thêm nhiều vũ khí. Nhưng, cùng với vũ khí là làn sóng cố vấn Trung Quốc tràn sang, áp đặt các chuẩn mực cách mạng vô lại của Mao, ở hậu phương thì các cuộc đấu tố phá vỡ các nền tảng đạo đức gia đình, xã hội; ở trong quân đội thì chỉnh huấn làm hoang mang không ít chỉ huy.
Vào thời điểm cuộc kháng chiến vẫn còn là “chống Pháp giành độc lập” ấy, các chỉ huy lừng danh như Lê Trọng Tấn, Vương Thừa Vũ, Đặng Văn Việt… đều có người nhà là nạn nhân của các cuộc đấu tố ở địa phương. Vợ của nhà khoa học tự sản xuất được penecilin, bác sỹ Đặng Văn Ngữ, shock nặng sau khi chỉnh huấn, bị tai biền rồi mất khi chồng cũng đang căng thẳng trong một đợt chỉnh huấn ở xa khác. Nhiều sỹ quan thiện chiến “cứng đầu” của quân đội thay vì ở chiến trường cũng bị giữ trong các lớp chỉnh huấn như vậy.
Những tư liệu được Cao Bảo Vân trích dẫn cho thấy khá rõ “mục tiêu của các cố vấn Tàu” là Tướng Giáp và những tư lệnh giỏi nhất có nguồn gốc trí thức của ông. Chị cũng cho thấy vai trò của Nguyễn Chí Thanh trong việc “mở cửa” áp dụng nguyên tắc “chính trị là thống soái” của Mao; giải thích vì sao ông được phong đại tướng khi miền Bắc đã không còn chiến tranh (1958-1959); giải thích vì sao các chỉ huy nông dân như Nguyễn Chí Thanh, Chu Huy Mân, Lê Đức Anh… cho tới lúc đó, chiến tích không thể so sánh với các tướng trí thức, tài ba và cho tới lúc đó, có người vẫn chỉ tiến hành chiến tranh du kích, về sau lại đều trở thành “rường cột”.
Cho dù đều là những “hùm xám” trên chiến trường, Đặng Văn Việt – từng đồng cấp với Chu Huy Mân – vĩnh viễn đeo quân hàm trung tá; tướng Cao Văn Khánh đeo quân hàm đại tá 26 năm… Những tướng lĩnh xuất thân trong các danh gia vọng tộc, cho dù công trạng thế nào, đều phải nhường các vị trí quan trọng cho những sỹ quan nông dân thất học hoặc chỉ lớp 3, lớp 4.
Lần đầu tiên, trong cuốn sách của Cao Bảo Vân, một tư liệu rất quan trọng về Quảng Trị đã được công bố.
Cuối tháng 4-1972, tướng Hoàng Nghĩa Khánh được tướng Văn Tiến Dũng cử ra Hà Nội báo cáo, vừa ngồi với Tướng Giáp 5 phút thì bị triệu sang nhà Lê Duẩn. “Lê Duẩn đặt cả bàn tay xuống bản đồ, trùm lên cả khu vực La Vang, thị xã Quảng Trị đến cầu Mỹ Chánh và nói: Tôi đồng ý đánh ngay”. Hôm sau, Quân ủy họp đều phải “đồng ý đánh” kể cả tướng Giáp người từng quyết định dùng “một con đường” đánh vu hồi.
Từ tháng 5, VNCH bắt đầu phản công, Thành Cổ bị cày nát. Thời gian sau đó, các tướng Cao Văn Khánh, Vương Thừa Vũ, Nguyễn Hữu An và cả Lê Trọng Tấn đều nhận thấy là phải chuyển sang phòng ngự. Tướng Giáp yêu cầu chuyển sang phòng ngự nhưng Văn Tiến Dũng và Trần Quý Hai không thực hiện tiếp tục phản công (theo tướng Lê Phi Long, ai đở HN vẫn gọi điện vô nguyên tắc vào chiến trường ra lệnh đánh – HĐ).
Từ tháng 7 cho đến 16-9-1972, bộ đội vẫn phải vượt sông Thạch Hãn “phản công” mà không giành được chiến thắng nào… Mỗi ngày Mặt Trận phải bổ sung vào Thành Cổ hơn trăm quân, chủ yếu là sinh viên mới vào từ Hà Nội, mà không bù đủ số hy sinh của ngày hôm đó.
Dù cuốn sách khá ít chất văn vẫn có rất nhiều trang cảm động. Không chỉ là những câu chuyện cảm động trong tình yêu của ông với một “tôn nữ” bỏ Kinh thành Huế ra chiến khu. Mà còn thật sự cảm động trước khát vọng độc lập, tình yêu đất nước của những người xuất thân là trí thức “thời Tây” như Cao Văn Khánh, Đặng Văn Việt, Phan Tử Lăng…, của những người như mấy chị em vợ ông, con cụ Thượng thư Tôn Thất Đàn, chịu bao cay đắng mà vẫn hết lòng vì đất nước.
Những ngày tháng 8-1945 là thời điểm mà Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội lịch sử, nhưng cũng đầy những tình huống oái ăm. Mãi tới 1949, tướng Cao Văn Khánh mới vào đảng. Từ khi cầm súng, ông chỉ có ý định vì đất nước, vì nhân dân. Ý thức hệ không chỉ chia cắt anh em ông (anh trai ông từng là Phó chủ tịch quốc hội thời đệ Nhất Cộng hòa), chia cắt bạn bè ông… Nhiều người xuất sắc nhất ở thế hệ ông đã theo kháng chiến bởi lòng yêu nước vô điều kiện và khát khao độc lập. Việt Nam đã rất khác, nếu như cuộc kháng chiến có được những người xuất sắc ấy chỉ chiến đấu vì một mục tiêu duy nhất là cho Việt Nam tự do – độc lập.




August 27, 2019
SỬA LUẬT ĐẤT ĐAI NHÌN TỪ THỦ THIÊM
Chính quyền vừa tuyên bố sẽ dành trên 2000 tỷ để bồi thường cho các hộ dân bị giải tỏa lố khi quy hoạch Thủ Thiêm. Những người có đất nằm trong khu 4,3 hecta “ngoài ranh” này được nói là sẽ nhận đền bù “theo giá thị trường hiện tại”. Sửa sai là cần thiết, kể cả việc bỏ tù những lãnh đạo TP đã cố ý làm trái, giải tỏa trắng nhà cửa của 331 hộ dân “ngoài ranh”.
Nhưng, nếu quyết định đúng đắn này được thi hành, mức đền bù mà các hộ dân “ngoài ranh” nhận được có thể gấp hàng chục lần mức mà hơn 14 nghìn hộ dân “trong ranh” nhận được. Quy hoạch chứ có phải là “ông thần đèn” đâu mà để chỉ vẽ một lằn ranh là có thể làm mất giá hàng ngàn hecta và làm khốn đốn hàng vạn người dân đang yên, đang ổn.
Những người đang chuẩn bị sửa Luật Đất Đai mà không xem xét kỹ những “trường hợp điển cứu” này để thay đổi cách tiếp cận các chính sách liên quan đến đất đai thì việc sửa Luật chỉ có giá trị giải ngân một dự án.
Không thể có một thứ có thể bán được rất nhiều tiền mà lại không được đối xử như tài sản; không thể có loại tài sản nào (như đất) mà chỉ cần một quy trình hành chính (phê duyệt quy hoạch hoặc cho các hộ nông dân được chuyển đất trồng lúa thành đất xây dựng) là có thể làm cho tài sản đó mất giá hoặc tăng lên rất nhiều lần giá.
Cho dù vẫn giữ nguyên tắc “đất đai thuộc sở hữu” toàn dân, khái niệm này nay chỉ còn ý nghĩa như một tuyên ngôn chính trị. Hiến pháp và Luật Đất Đai đã trao cho người sử dụng đất các quyền. Và, Bộ Luật Dân Sự đã coi các quyền này của người sử dụng đất là tài sản (Điều 174). Sở dĩ chính sách đất đai luôn tạo ra ức chế cho người dân, nuôi dưỡng các nguy cơ bất ổn cho Chế độ, vì Luật Đất Đai đã không tuân thủ các nguyên tắc Hiến định, đối xử với quyền sử dụng đất của người dân như tài sản.
Hãy coi “chính sách đền bù” được áp dụng ở Thủ Thiêm để thấy sự áp đặt hành chính đã làm méo mó một quy trình, bản chất là, dân sự này (nhà nước “mua” lại quyền sử dụng đất của người dân).
Cho dù hiện trạng khi giải tỏa chủ yếu đang là vườn nhà thì việc đền bù ở Thủ Thiêm được phân theo loại đất: thổ cư & đất nông nghiệp. Giá đền bù với đất thổ cư, mặt tiền là 3,6 triệu/m2, mặt hẻm là 2,3 triệu/m2; với đất nông nghiệp là 150 nghìn đồng/m2.
Có lẽ vì chính quyền cũng từng thấy giá đền bù phi lý ngay từ đầu, nên ngoài mức giá chính thức này, TP còn có một khoản “hỗ trợ” cao hơn rất nhiều so với giá chính thức. Với đất thổ cư, được “hỗ trợ” thêm 16 triệu/m2; đất nông nghiệp được “hỗ trợ” 720 nghìn đồng/m2. Tuy nhiên, cho dù một hộ đã có sổ đỏ cấp 1.000m2, chính quyền cũng chỉ công nhận không quá 200m2, phần ngoài 200m2 này không được nhận “hỗ trợ” thêm 16 triệu.
Có ai trong chúng ta đi mua nhà đất mà phải cò kè miếng mông, miếng mỡ như mua thịt ngoài chợ thế không.
Đất đai hiện có thể đang là ở dạng tài nguyên (đất hoang hóa, sông núi…), đất công và đất đã giao cho người dân. Việc nhà nước giữ một diện tích đất nông nghiệp nhằm đảm bảo an ninh lương thực là cần thiết. Nhưng, một khi đã quy hoạch, thay đổi mục đích sử dụng (như trong trường hợp Thủ Thiêm) thì ao hồ ruộng vườn đều trở thành một mặt bằng, chúng chỉ khác nhau ở chỗ tốn ít hơn hay nhiều hơn công san lấp. Cách phân loại đất để đền bù như Thủ Thiêm vừa rối rắm vừa phi lý; nghe qua thấy đền bù gần 20 triệu một mét vuông thì tưởng là cao, trên thực tế, nhiều gia đình chỉ nhận được giá ấy trên một phần rất nhỏ.
Đành rằng, đời bộ trưởng nào cũng muốn ghi dấu ấn về chính sách. Nhưng, nếu tham vọng viết lại toàn bộ luật đất đai thì rất dễ xảy ra tình huống, có một luật mới mà không có chính sách nào mới. Từ những trường hợp như Thủ Thiêm, Bộ Tài Nguyên & Môi Trường nên làm rõ các chính sách nào đang tạo ra tham nhũng, tạo ra những bất bình trong dân chúng, rồi lựa chọn những vấn đề ưu tiên để sửa.
Đã rất chín muồi để sửa điều 62, thay quyền thu hồi đất (chủ yếu của cấp huyện và cấp tỉnh) bằng quyền trưng mua (theo điều 32 của Hiến pháp). Thay vì phân chia đất thành 20 loại như hiện nay, chỉ cần xác lập quyền của nhà nước đối với đất đai đang ở dạng tài nguyên; sử dụng quy hoạch để giữ những vùng đất màu mỡ cho nông nghiệp (ví dụ như không cho chuyển sang đất xây dựng ở những nơi ruộng vườn tốt tươi như Văn Giang, Ecopark…); đưa ra các quy chuẩn để chỉ trong trường hợp hạ tầng như thế nào mới cho xây dựng thay vì “ăn ở thế nào” ông huyện mới cho xây dựng.
Luật cũng nên tính tới tình huống cho dân chúng ở những vùng quy hoạch (như Thủ Thiêm, Văn Giang…) được bầu ra các ban đại diện để đàm phán trực tiếp với các chủ đầu tư. Những trường hợp như Ecopark, Văn Giang… cấm nhà nước địa phương can thiệp, chủ đầu tư phải trực tiếp thương lượng với dân chúng. Ở những nơi đụng chạm đến hàng chục vạn dân như Thủ Thiêm, Nhà nước làm trọng tài cho các chủ đầu tư đàm phán với ban đại diện được dân bầu ra tự nguyện và minh bạch.
Trong mọi trường hợp, không bao giờ được nhân danh lợi ích chung, lợi ích quốc gia… để o ép lợi ích của người dân trong vùng quy hoạch. Khi nhà nước trưng mua, người dân ở đó không chỉ xứng đáng được nhận một khoản tiền bằng giá giao dịch phổ biến cùng thời, mà còn cần được bồi thường các thiệt hại bất an cư ngoài ý muốn. Để sự phát triển trước hết mang lại lợi ích cho người dân nên có thiết chế để dân góp vốn bằng quyền sử dụng đất vào các đô thị như Thủ Thiêm và nhiều khu đô thị mới.
Những người sửa Luật Đất đai không nên tiếp cận các chính sách theo hướng coi nó như một công cụ quyền lực gắn với những chiếc ghế mình đang ngồi mà phải tiếp cận theo hướng nó sẽ tác động tới làng xóm, tới ông bà, cha mẹ mình và chính mình (không ai ngồi trên ghế đó cả đời). Cũng đừng tự đóng đinh Luật Đất đai trong các ràng buộc của ý thức hệ.
Cần cảnh giác với những kẻ nhân danh bảo vệ chế độ khi làm những chính sách nhạy cảm như đất đai. Lý luận thì rất mơ hồ nhưng các công cụ chính sách thì rất dễ quy thành tiền bạc. Có thể, chính những kẻ đang muốn giữ các chính sách làm vừa lòng những người bảo hoàng đã và đang khai thác những chính sách đó, lấy đất của dân cho các nhóm lợi ích, tích lũy ức chế, đẩy dân đối đầu với chế độ.
August 3, 2019
NHỮNG TIẾNG THỞ DÀI KÍN ĐÁO CỦA LÊ MINH HÀ
Vì được viết ở thể “phi hư cấu”, nên 14 truyện trong tập “Những Triền Xưa Ai Đi” không có cái nào dài tới 2000 từ, không có một nhân vật nào là điển hình, không có xung đột nào làm ta nghẹt thở… Từng câu chuyện dường như không được viết bởi một nhà văn, chúng tuần tự đi qua ký ức, dẫu rõ mồn một dưới nắng trưa hay chìm sâu trong bóng đêm đều như những tiếng thở dài kín đáo.
Những câu chuyện rất thật ở một làng thuộc tổng Hà Đông, nơi, chỉ một cái ngõ 7 nhà đã có 3 nhà có 4 người đàn bà góa bụa. Làng Tề, khi “hòa bình lập lại”, không chỉ vợ của những người chịu oan khuất phải “cúi mặt đi qua những ngày thắng lợi”; mà cả những người khi chồng lên khỏi hầm bí mật thì vợ đã kiệt quệ với đói khát, hậu sản…
Những người phụ nữ ấy gần như không ai được quyền sống cho mình. Họ bươn chải, họ tần tảo hoặc một mình nuôi con chỉ vì một bổn phận được mặc định; hoặc vì lòng kiêu hãnh với nhà chồng, với làng xã. “Cháu phấn khởi lắm dì ạ” – một người phụ nữ mắt mờ, rạc người vì con dâu liên tục đẻ để có hơn “một thằng cu giữ giống cho nhà chồng” – đã nhắc lại câu này không dưới một lần.
Thế hệ những người đàn bà cô đơn vì có chồng biệt tăm “theo Tây” hay hy sinh trong “Chiến dịch Thu Đông 47” chưa kịp qua tuổi 30, thì để vì “Bắc Nam sum họp” trai tráng lại biền biệt đi không trở lại. Chính trong gia đình các bà “góa từ tuổi 20” ấy lại có thêm những bà góa ở tuổi 20 khác. Một người vợ đã hóa điên không phải vì chồng hy sinh mà vì ba lần… được báo tin chồng hy sinh. Những ai có chồng thọt chân, chột mắt, “được gọi là may” vì “đêm đêm còn có thể gác chân nghe chồng ngáy”.
Vò võ và đói khát đi qua kinh tế hợp tác hóa và chiến tranh; nhưng, để thoát khỏi làng, một cặp vợ chồng đã chọn giải pháp phá thai để không bỏ lỡ chuyến đi Tây vì, “Một năm đi Pháp bằng một giáp đi Nga”; một chàng trung cấp thủy văn chọn “xuất khẩu lao động”, ngậm ngùi để lại làng quê hình ảnh một cô bé thon thả với chiếc chiếu rộng – đang giặt – “dập dềnh trên mặt sông, sát bắp đùi nó”.
Theo Lê Minh Hà, vì không phải là hư cấu nên tác giả đã không thể “cắt gọt hiện thực, không thể đục hết những chỗ thừa”. Không biết tác giả “hành nghề văn chương” lúc nào. Chỉ thấy, nhắm mắt vẫn nghe nồng nặc mùi váy đụp của bà Đức Đạo; gấp sách là thấy nước mắt tiết hạnh dàn dụa trên gương mặt của hai cô cháu, lặng lẽ từ hai đầu giường, sau 20 năm cùng góa…
PS: Hiểu những gì mà tác giả dành cho “Phú” nhưng lấy tên chuyện này, Những Triền Xưa Ai Đi, thì sến tới mức không ai nghĩ đó là tên của 170 trang sách được viết bằng những câu văn rất thật và giản dị.
[image error]
August 2, 2019
NGUYỄN HÀ PHAN (1933-2019)
Ông Nguyễn Hà Phan mất ngày 1-8-2019. Trên mạng truyền đi “Lời Dặn Dò” này của ông. Không rõ thực hư thế nào (dù nét chữ rất giống). Ông Phan là Phó chủ tịch Quốc hội khóa IX, Bí thư TW đảng, Trưởng ban Kinh tế TW khóa VII. Tuy nhiên, sáng 17-4-1996, ông đã bị Trung ương khai trừ; cách hết các chức vụ trong đảng và tháng 10-1996, Quốc hội khóa IX đã bãi miễn cả chức vụ Phó chủ tịch và chức danh đại biểu của ông.
Ông Phan hẳn phải biết, trong hệ thống chính trị mà ông từng là ủy viên “thường trực” này, một khi đã bị “khai trừ” thì sẽ bị ngay chính hệ thống ấy đối xử không bằng thường dân. Làm gì có tổ chức nào tham gia ban lễ tang và báo, đài nào đưa tin nữa.
PS: Ông Nguyễn Hà Phan bị bãi miễn vào ngày 24-10-1996, nhằm vào ngày thứ Năm, trong khi báo Tuổi Trẻ lúc đó chỉ ra Ba – Năm – Bảy, nghĩa là vào sáng hôm sau Thanh Niên và các tờ nhật báo đã đưa. Lê Thọ Bình (Lê Đức Sảo) đã có bài phỏng vấn Phó chủ tịch Phùng Văn Tửu nói chi tiết “vụ án Nguyễn Hà Phan” nhưng báo chí chỉ được phép đưa một dòng theo thông cáo của QH.
Tuổi Trẻ không thể không đưa tin nhưng một tờ như Tuổi Trẻ lại không thể lặp lại tin các báo.
Trước đó, không ai để ý, trên đoàn chủ tịch Quốc hội có một chiếc ghế trống nhưng tới hôm sau bãi miễn ông Phan thì chiếc ghế này không còn. Tôi lẳng lặng quan sát và vào ngày thứ Bảy, 26-10-1996, tôi mở đầu bản tin trên Tuổi Trẻ, “Hôm qua, một chiếc ghế trên đoàn chủ tịch QH đã được cất đi. Đó là chiếc ghế của Phó chủ tịch Nguyễn Hà Phan, được bỏ trống từ đầu kỳ họp cho tới ngày 24-10-1996, ngày ông bị Quốc hội bãi miễn…”
R.I.P. ông.
PS2: Vì có rất nhiều thông tin nhiễu, tôi xin bổ sung: Ông Nguyễn Hà Phan bị kỷ luật là do khai báo ra các cơ sở nhóm của ông cắm trong lòng VNCH dẫn đến họ bị thủ tiêu gần hết[nhưng khi ra tù thì ông báo cáo tổ chức là hết sức kiên trung]. Có bị tố cáo nhưng không tìm thấy tài liệu chứng minh ông là “CIA cài lại”. Ông Phan được đưa vào BCT một phần nhờ ủng hộ những nhà lãnh đạo bảo thủ “chống chệch hướng”, tức là chống lại các chính sách cải cách. Ông Nguyễn Văn Linh, ông Lê Phước Thọ (6 Hậu) là người chống lưng ông Phan chứ không không phải “phát hiện ra “thẹo” như các câu chuyện li kỳ trên FB.
[image error]
June 30, 2019
MỘT QUY TRÌNH CHÍNH TRỊ ĐÚNG LÀ PHẢI RẤT CHÍNH TRỊ
Tôi đã không để ý đến những cái links ông Lê Thanh Hải phát biểu về “đạo đức Hồ Chí Minh” vì nghĩ chắc links cũ từ nhiều năm trước. Thành ủy không thể vô chính trị khi để cho một người mà dân chúng đang muốn tùng xẻo dạy dỗ đạo đức; ông Hải không thể trơ trẽn đến mức bất chấp cách người ta đang soi từng milimet mặt mình.
Thế nhưng, cái sự kiện đó mới xảy ra vài ngày sau khi công bố kết luận Thanh tra Thủ Thiêm chứ không phải là chuyện cũ.
Rất nhiều người ngồi ở những chiếc ghế trang trọng hôm ông Hải nói, từng nắm giữ quyền bính ở Sài Gòn và từng đưa ra những quyết định mang nhiều yếu tố tội phạm [liên quan đến Trầm Bê, liên quan đến Khu Công nghệ cao… chứ không chỉ liên quan đến Thủ Thiêm]. Lẽ ra, cách ứng xử khôn ngoan của họ phải là ngồi nhà chờ nghe tiếng còi xe; nhưng, bất chấp thái độ của dân chúng, bất chấp pháp luật… họ mặt trơ trán bóng xuất hiện, cứ như dân không biết họ là ai.
Đành rằng, xử lý cán bộ nằm trong các cấp ủy của Đảng là phải đúng quy trình. Nhưng, cái cách các UV BCT vẫn phải ôm hoa tặng những kẻ sắp sửa vào tù như Đinh La Thăng (khi từ TP ra Ban Kinh tế); như Trương Minh Tuấn (từ bộ 4T sang Ban Tuyên Giáo)… là chẳng ra thể thống gì. Một quy trình xử lý cán bộ muốn được coi là đúng không thể vô chính trị, bất chấp thái độ của dân như thế.
Thường thì trước khi xử lý kỷ luật, UBKT TW Đảng đã biết rõ các hành vi vi phạm của các đảng viên cấp cao. Cứ cho là, Đảng không thể ra lệnh bắt bớ ai, nhưng, với những kẻ mà hành vi phạm tội đã hai năm rõ mười như Tất Thành Cang… (hay Trương Minh Tuấn, Đinh La Thăng… trước đây) thì nên đình chỉ ngay.
Cứ máy móc bố trí những kẻ như Cang vào bất cứ cương vị nào tương đương với Thành ủy viên đều là sự xúc phạm đến hệ thống chính trị và coi thường dân chúng. Để những kẻ như Ba Đua, Hai Nhật… tiếp tục rao giảng đạo đức trong khuôn khổ một chương trình mà quý vị đang tính nhân bản “tấm gương” thì quý vị dường như đang muốn gửi thông điệp với mọi người là chính quý vị cũng đang không tin vào “tấm gương” nào cả.
June 16, 2019
GIANG HỒ & ĐEN
Các băng nhóm giang hồ, xưa kia, có “luật” không đụng công an. Khi các băng đảng ở Đồng Nai chặn công an giữa thanh thiên, có nghĩa, công an ở đây không còn là lực lượng mà bọn chúng kiêng nể nữa.
Nhiều năm nay về Nghệ An, gặp vài cựu lãnh đạo địa phương, cứ lúc nào nói về tội phạm, các bác lại thở dài, kể chuyện: Ngày còn làm Bộ trưởng, Trần Đại Quang về thăm, tỉnh đã làm cơm đón tiếp ở Vinh; cận trưa được báo, Đại tướng sẽ ăn trưa ở Thái Hòa. Nghe đến Thái Hòa, nhiều vị trong thường vụ lắc đầu lè lưỡi vì biết chắc Đại tướng sẽ ăn cơm nhà một ông trùm nổi tiếng. Khi Trần Đại Quang đã là Chủ tịch nước, một số lãnh đạo tỉnh vẫn còn phải “tháp tùng” ông ta lên Thái Hòa.
Ra Hải Phòng hay Quảng Ninh, nhiều lãnh đạo địa phương cũng kể chuyện về những bữa cơm của Đại tướng ở nhà những nhân vật mà ở địa phương ai cũng biết.
Các nhà báo ở một tỉnh miền Trung kể, các anh rất xấu hổ khi chứng kiến vài sỹ quan công an khúm núm trước một ông trùm khi ông này đang ngồi với sếp họ.
Chẳng có địa phương nào mà cảnh sát không biết ai đánh bạc, ai tín dụng đen… Chỉ là chúng ta không biết ai đã trói tay ai. Khi giang hồ không còn nể mặt công an rất có thể bọn chúng đã cho rằng công an còn đen hơn chúng.
Huy Đức's Blog
- Huy Đức's profile
- 51 followers
