Nhìn từ một định lý của Poincare: saṃsāra (luân hồi) vs śūnya (tính không)
Mới đây trên arxiv xuất hiện một công trình toán vật lý có tên là Cosmohedra. Công trình này sử dụng hình học (polygon, sub-polygon…) để xác định các đối tượng hình học nền tảng (mà các tác giả gọi là cosmohedron) của hàm sóng vũ trụ (cosmological wavefunction). Nếu công trình này đúng, và đi đúng hướng, thì nó sẽ đặt nền móng cho các nhà vật lý giải được hàm sóng (lượng tử) của cả vũ trụ.

Năm 1890, Poincaré đề xuất một ý tưởng mà sau khi được chứng minh (1919) thì nó trở thành định lý mang tên ông “Poincaré Recurrence Theorem”. Định lý này nói rằng một hệ có cấu hình (configuration) bất kỳ, cứ để nó tiến hoá (thay đổi) theo thời gian, đến một lúc nào đó cả hệ sẽ quay lại configuration đầu tiên. Tức là hệ đó được “tái sinh”. Nếu là một hệ liên tục, nó sẽ tái sinh gần giống configuration ban đầu, với một sai số nhỏ. Nếu là hệ rởi rạc, nó tái sinh đúng 100% như lúc đầu tiên. Mà hệ lượng tử là hệ rời rạc.
Hệ phương trình Einstein (Thuyết tương đốii tổng quát) là hệ phi tuyến. Nếu vũ trụ tiến hoá theo phương trình Einstein, đến một lúc nào đó nó sẽ gặp điểm kỳ dị (singularity) và không gian – thời gian sẽ chấm dứt. Hoặc đi ngược về quá khứ, sẽ có một thời điểm ở đó không gian và thời gian được sinh ra. Có khởi đầu và kết thúc.
Hàm sóng lượng tử (phát triển từ bản gốc của Schrödinger) là tuyến tính. Với một số điều kiện đặc biệt (có biên/bounded) và số trạng thái lượng tử (không gian Hilbert) là không vô hạn, nếu vũ trụ tiến hoá theo hàm sóng thì thời gian sẽ chảy liên tục về vĩnh hằng tương lai, hoặc nhìn về quá khứ cũng sẽ thấy thời gian đến từ vĩnh hằng quá khứ. Tức là thời gian không có khởi đầu và kết thúc.
Nếu thời gian là dòng chảy vô hạn, thì đến một thời điểm nào đó trong tương lai, dù rất là xa (nhưng hữu hạn) thì theo định lý Poincare vũ trụ sẽ tái sinh.
Trong trường hợp này Luân hồi là một học thuyết đúng. Nhưng nếu học thuyết này đúng nó sẽ phủ nhận khái niệm Tính không. Bởi tính không đi kèm với một vũ trụ unbounded.
Hơn nữa, nếu vũ trụ là lượng tử, nó buộc phải có các tự tính (intrinsic) ví dụ như spin mà tính không lại phủ nhận tự tính (svabhāva). Cho nên nếu áp dụng vật lý lượng tử vào phật học, thì hoặc ta phải chấp nhận học thuyết luân hồi và phủ nhận tính không, hoặc phủ nhận luân hồi, chấp nhận tính không.
Duy có học thuyết vô ngã (anātman) là luôn tồn tại, bất kể dùng lý thuyết Einstein hay lý thuyết của Schrödinger.
(Poincaré là người đặt nền tảng toán học cho thuyết tương đối. Vì thế ông này từ chối thừa nhận thuyết tương đối là của Einstein. Einstein trái lại, thừa nhận thuyết tương đối hẹp của mình và thuyết của Poincaré (gồm hai paper khác nhau) là tương đồng về toán học. Sau khi Poincaré chết và trước khi Einstein chết, Einstein vẫn phát biểu ghi nhận Poincaré. Một số nhà vật lý cứng đầu vẫn cho rằng Poincaré và Lorentz mới là những người tìm ra thuyết tương đối. Ý tưởng sóng hấp dẫn của Einstein thực ra cũng do Poincaré đề xuất. Vậy nên cho đến cuối thế kỷ 20 nhiều người vẫn nghi ngờ rằng Poincaré mới là người tìm ra phương trình E=mc^2 của thuyết tương đối hẹp, chứ không phải Einstein.)



Nguyễn Phương Văn's Blog
- Nguyễn Phương Văn's profile
- 23 followers
