Nguyễn Phương Văn's Blog
August 18, 2025
Tiếng gà gáy sáng làm thức tỉnh Peter
(Hay ai là người thầy tư tưởng của Peter Thiel)
Có một câu nói đùa, rằng các phong trào trí thức tác động đến chính trị ở phương Tây đều bắt nguồn từ các nhà tư tưởng Pháp. Phong trào Phản Cách mạng mà Peter Thiel, Curtis Yarvin và J.D. Vance đang tiến hành ở Hoa Kỳ liệu có bắt nguồn từ một nhà tư tưởng Pháp nào không.
Câu trả lời là có. Tên ông là René Girard. Thiel gọi ông là nhà tư tưởng và là nhà bác học Kitô Giáo. Phó tổng thống JD Vance gọi ông là triết gia. Còn tờ Financial Times viết một bài về ông, tên bài là “Làm sao một nhà phê bình văn học người Pháp chẳng mấy ai biết đến lại trở thành con chiên đầu đàn dẫn dắt cánh hữu Hoa Kỳ.”
Thiel nói nếu Nietzsche là triết gia thế kỷ 19 có dấu ấn lớn ở thế kỷ 20 thì Girard sẽ là triết gia thế kỷ 20 có dấu ấn lớn ở thế kỷ 21. Vào năm 2100 (tức thế kỷ 22), khi người ta lập danh sách các triết gia của thế kỷ 20, 21, Girard sẽ là nhà tư tưởng nổi bật nhất thời đại chúng ta. Còn nhà kinh tế học Tyler Cowen (tác giả của ít nhất một cuốn sách đã được dịch in ở VN) phát biểu rằng nếu có một bản danh sách 20 nhà tư tưởng nổi bật ở nửa cuối thế kỷ 20, ông sẽ chọn Girard (và Foucault) vào danh sách.
René Girard được bầu vào Viện hàn lâm Pháp (Académie Française) năm 2005. Ông qua đời sau đó 10 năm, tức năm 2015.
*
Tờ Financial Times, trong bài viết về Girard có một câu tô đậm: “Trong lúc chủ nghĩa hậu cấu trúc (post-structuralism) lan khắp các trường đại học Hoa Kỳ thì Girard lại theo đuổi những ẩn ý của những ham muốn hình thành nhờ bắt chước (mimetic desire).
Bài báo kể lại hội nghị chuyên đề “The Languages of Criticism and the Sciences of Man” về cấu trúc luận (structuralism) năm 1966 ở đại học Johns Hopkins. Girard và đồng nghiệpmời một nhóm các nhà tư tưởng lớn người Pháp, trong đó có Michel Foucault, Jacques Lacan và Claude Lévi-Strauss. Sau khi Lévi-Strauss và Foucault rút lui, Girard mời triết gia trẻ chưa mấy nổi tiếng: Jacques Derrida. Tại hội thảo, Derrida tấn công những giả định cơ bản của chủ nghĩa cấu trúc, xóa bỏ những phân biệt nhị nguyên để phơi bày những lực xã hội đã duy trì chúng. Những người ở phe bảo thủ cho rằng tư tưởng của Derrida (“chủ nghĩa hậu hiện đại”) là nguồn gốc của những tệ nạn trong xã hội hiện đại.
Girard sau này vẫn đã nói đùa rằng, bằng cách mời Derrida, ông và những người tổ chức hội nghị đã mang dịch bệnh cài vào nước Mỹ.
*
Girard nói đại ý rằng: “Khi chúng ta gặp vấn đề, gặp khó khăn, và bất đồng, chúng ta có xu hướng tìm một ai đó để đổ lỗi, đây là hiện tượng được biết đến rộng rãi với tên gọi “scapegoat”. Loài người chém giết lẫn nhau không phải vì họ khác biệt mà vì họ quá giống nhau. Có một nghịch lý, đó là con người cùng ham muốn một thứ, thì thứ đó sẽ chia rẽ con người, nhưng con người cùng tấn công một nhân vật, thì nhân vật đó lại đoàn kết con người.”
Girard nhìn được tận sâu thẳm dưới đáy vấn đề xung đột của loài người, đó là họ có ham muốn giống nhau, các ham muốn có được là vì đi bắt chước nhau, chứ không phải là ham muốn thực, từ thâm tâm thực, từ trí óc thực, của mỗi con người.
Thiel nói lần theo sợi chỉ tư tưởng của Girard sẽ giúp ta biến thế thế giới này thành thứ có ý nghĩa.
*
Rene Girard đúng là người Pháp, nhưng nghiên cứu và giảng dạy đại học ở Mỹ. Ở Mỹ nhưng lại có ba cuốn sách xuất bản và gây tiếng vang ở Paris hồi những năm 1970. Ở Mỹ tên tuổi của ông không lững lẫy như Foucault, Lacan, Derida, thậm chí khá mờ nhạt. Ông cũng không hẳn là nhà phê bình văn học như tờ FT giật tít. Bù lại, tên tuổi của ông được biết đến khá nhiều trong giới thần học và nhân học. Các lý thuyết quan trọng của ông được xếp vào ngành thần học và “nhân học triết” (philosophical anthropology).
Ngành nhân học (anthropology) tự nó liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, từ phân tâm học, lịch sử, huyền thoại, văn hoá dân gian đến các tục lệ cổ. Sự nghiệp học thuật của Girard lan man y như vậy.
Sinh ra (năm 1923) và lớn lên ở Avignon, một nơi mà ai đọc Daudet đều biết với các vi giáo hoàng bỏ Vatican về sống ở đây. Bố Girard làm curator cho Cung Giáo hoàng (Palais des Papes), nhưng mãi đến năm 1959 ông mới vào đạo Công giáo. Là sinh viên ở Paris thời Đức chiếm đóng, Girard bỏ qua Mỹ học tiếp, làm PhD Lịch sử, rồi xin được một chân giảng viên khoa Pháp ở một đại học. Ở đây ông phải dạy văn học Pháp và bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu của mình từ vị thế một giảng viên và góc nhìn của nhà phê bình văn học.
*
Girard ví von các tác phẩm lớn của các tác giả lớn như những quả núi lớn, ngăn cách nhau bởi các thung mênh mông, chẳng có gì kết nối chúng với nhau. Nhưng, hẳn phải có gì đó chung, ẩn chứa ở tầng sâu nào đó kết nối chúng với nhau chứ – ông tự hỏi.
Máy Boltzmann (Boltzmann machine), một cấu phần nền tảng của học máy (machine learning), thường được dùng để nhận dạng hình ảnh và phân tích ngôn ngữ. Nó có khả năng phát hiện ra các khuôn mẫu (pattern) chung giữa các hình ảnh và đúc rút ra các đường nét đặc trưng (feature) của các hình mẫu rồi so sánh ảnh chưa được nhận dạng với những hình ảnh mà nó đã biết.
Lý thuyết Phạm Trù, một lý thuyết toán hiện đại, cũng nhìn vào các lĩnh vực toán khác nhau như các quả núi lớn tách biệt (hay như các lục địa ngăn cách bởi các đại dương) để cố gắng tìm ra, dựa vào insight của các nhà toán học (như Penrose khẳng định), các kết cấu (structure) chung, các khuôn mẫu tương đồng ẩn mình dưới một nền tảng chung của các các ngành toán học.
Lý thuyết phê bình văn học của Girard dựa vào năng khiếu của người phê bình để nhận ra các cấu trúc, các khuôn mẫu chung ẩn dưới các thung lũng và luồn dưới cân các đỉnh núi văn học. Rồi ông phát triển nó thêm, đào sâu vào tài nguyên văn bản là các sách thánh và sách Tin Mừng Nhất Lãm (Tân Ước), dựa vào các huyền thoại, dựa vào phân tâm học và dựa vào lịch sử. Từ đó tìm ra lý thuyết riêng của mình, dù không được coi là nguyên gốc (origin), nhưng vẫn khá độc đáo và giải quyết được những vấn đề lớn của nhân loại: ham muốn, cạnh tranh, ghen tị, hận thù, đổ lỗi buộc tội và bạo lực ở cấp độ cộng đồng (public violence).
Girard từng làm kinh ngạc sinh viên khi ông mang đến giảng đường một cuốn sách chưa đọc và phân tích nó (trúng phóc) bằng lý thuyết khuôn mẫu mà ông tìm tòi và phát hiện ra những tác phẩm kinh điển mà ông nghiên cứu.
*
Nếu nhìn vào tên các công ty mà đám tỷ phú công nghệ bạn hữu (tech bros) thành lập, ta sẽ thấy Palantir của Thiel, hay Erebor của Lonsdale (đàn em Thiel, đồng sáng lập Palantỉ) là hai cái tên xuất phát từ tác phẩm của Tolkien (Chúa Nhẫn). Tên công ty Tlön của Yarvin lấy từ tên truyện ngắn Tlön, Uqbar, Orbis Tertius của Borge (ở Việt Nam có bản dịch của An Lý). Yarvin cũng phân tích các hình thái và vận động xã hội thông qua “dark elf”, “high elves”, “hobbits” (lần lượt ứng với Yarvin, giới tinh hoa bang xanh và giới bảo thủ bang đỏ) là các giống người trong Chúa Nhẫn (The Lord of the Rings) của Tolkien.
*
Karl Marx nói rằng chủ nghĩa tư bản sẽ phải thử hết các hình thái mà nó có thể tồn tại, để đi đến hình thái cuối cùng. Chủ nghĩa xã hội cũng vậy. Nó vật lộn và thử qua mọi hình thái, từ nhà nước Xô Viết ở Nga đến các kiểu xã hội chủ nghĩa Bắc Âu và cả Hoa Kỳ thời Obama-Biden. Ở Tàu, nó xoay xở mọi hình thức để tồn tại và phát triển. Đọc Lý Chí Thoả ta sẽ thấy Mao thúc đẩy mọi biến động xã hội, phá huỷ căn cốt xã hội cũ để dần xoay trục sang Mỹ và Tây Âu, khi mọi thứ chín muồi và mình không còn sống được nữa, Mao gọi Đặng về và trao cho ngọn đuốc. Đặng đưa Trung Quốc hiện đại trở thành nước Tư Bản-Nhà Nước (State Capitalism). Chủ nghĩa tư bản Nhà nước này, không có gì mới mẻ, chính là cái mà Lenin mong muốn thông qua NEP.
Năm 1921 Lê Nin chỉ ra đường lối Kinh tế Mới (NEP New Economic Policy): Cần một hệ thống kinh tế chứa đựng kinh tế thị trường, chủ nghĩa tư bản, nhưng quy phục sự kiểm soát của nhà nước, và các công ty quốc doanh vẫn phải hoạt động trên cơ sở vì lợi nhuận.
Chủ nghĩa tư bản Hoa Kỳ cũng vật lộn tiến hoá theo thời gian. Hiện Mỹ và phương Tây đang và bị định hướng quay về với chủ nghĩa phong kiến mới, gọi là phong kiến công nghệ. Phong kiến cổ điển là các quý tộc sở hữu ruộng đất, cho nông nô canh tác và hưởng tô. Dần dần một số lớn mạnh thành lãnh chúa, có lâu đài, có nền kinh tế tự cung tự cấp. Rồi thành các quân vương có lãnh địa và quân đội. Các quân vương dần dần sẽ tiến đến chỗ chọn ra một quân vương mạnh nhất làm vua. Các lãnh chúa và quân vương xoay xở cân bằng quyền lực và lợi ích của mình với chính sách tô thuế của ông vua (siêu quân vương kia) cho đến ngày ông ta trở thành Hoàng Đế (cực mạnh, thâu tóm, cai trị tất cả, như triều đình Pháp của ông vua Louis). Các lãnh chúa công nghệ, các tài phiệt phố Wall đã chuyển mình thành các quân vương, họ bắt đầu chống lại được chính quyền Liên Bang và rồi họ sẽ tìm cách dựng ông Vua đại diện cho họ (Trump Vance) và đưa thể chế dân chủ Mỹ thành một nền quân chủ phong kiến công nghệ. (Xem thêm: Ai đã giác ngộ và huấn luyện Peter Thiel, Musk và phó tổng thống JD Vance? Peter Thiel và các hệ phái tư tưởng ở Silicon Valley và Bay Area, và Mắc kẹt kiểu Peter Thiel.)
Nhưng hiện tại, cả Mỹ và Tàu đều ở hai thái cực mà lại gần nhau, họ đều là State Capitalism. Nên chắc chắn, theo lý thuyết của Girard, họ sẽ xung đột. Con người ghét nhau vì họ giống nhau, Girard nói vậy.
Trong “Battling to the End” (xuất bản năm 2009), một cuốn sách phân tích các ý tưởng của binh pháp gia Carl von Clausewitz, Girard cho rằng xung đột địa chính trị là kết quả của ham muốn bắt chước chứ không phải là hậu quả của va chạm giữa các nền văn minh (“Clash of Civilizations” học thuyết của nhà khoa học chính trị Samuel P. Huntington). Từ 2009 ông đã viết “Giờ đây, ai cũng biết cuộc xung đột sắp xảy ra giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, chẳng hạn, không liên quan gì đến ‘va chạm giữa các nền văn minh’, bất chấp những lý thuyết một vài ai đó cứ cố gắng nói với chúng ta. Chúng ta luôn cố gắng tìm ra “sự khác biệt” trong khi thực tế không có gì cả. Trên thực tế, cuộc ganh đua nằm giữa hai hình thái chủ nghĩa tư bản đang ngày càng trở nên giống nhau”. Xung đột giữa hai cường quốc ngày càng giống nhau, có thể sẽ dẫn đến xoá sổ thế giới. Đó là lập luận “Tận thế” rất có ảnh hưởng của Girard.
*
Tháng Bảy năm 2024, tức là mới chỉ một năm trước đây, tờ New Yorker còn lên một bài (hơi thô sơ) thắc mắc về tôn giáo cực đoan của ứng viên phó tổng thống J.D. Vance. Vance mới vào đạo Công giáo được vài năm. Bài báo có tên “Tôn giáo cực đoan của J.D. Vance”. Một cách ý nhị, để giải thích cho chữ “cực đoan”, bài báo cũng ý tứ nói Biden cũng Công giáo, nhưng mềm mại, khác với đám Công giáo của Reagan ở Nhà Trắng rất chống Cộng, và khác đám thẩm phán Công giáo bảo thủ ngồi trong Toà án tối cao đang dang tay đón nhận J.D.Vance.
Để giải thích việc Vance từ một người vô thần cho đến khi là sinh viên đại học, bỗng thành một Kitô Hữu, tờ New Yorker viện dẫn vào một bài viết duy nhất, của chính Vance, đăng trên The Lamp (Con Chiên). Bài viết này của Vance cực kỳ độc đáo, nó có tên “Tại sao tôi gia nhập Kháng chiến – Về bà tôi và việc tôi trở thành Kitô hữu.”
Có lần, Vance nghe Thiel – lúc này Thiel đã trưởng thành – đến Trường Luật của Đại học Yale nói chuyện. Thiel, một người học luật ở Stanford, kinh doanh thành đạt, lại chỉ trích văn hoá tinh hoa của ngành luật. “Các luật sư cạnh tranh đến chết trong cuộc đua nghề nghiệp, từ luật sư ở hãng luật cho đến khi làm parner cũng của cái hãng luật ấy. Cạnh tranh cho đến chết từ chân luật sư giấy tờ ở toà cấp thấp, cho đến khi thành các luật sư ở toà cao”. Thiel đã mở mắt cho Vance, người sau này sau vài năm đi làm cho các hãng luật danh tiếng và hiểu thế nào là “cạnh tranh đến chết” đã chuyển qua làm thuê cho quỹ đầu tư mạo hiểm của Thiel.
Vance nói Thiel cực kỳ thông minh, nhưng lại là một Kitô Hữu (người theo đạo Kitô). Với Vance, người vô thần mới thông minh, bọn có đạo thì toàn lũ đần. Nên Vance rất ngạc nhiên và đi tìm hiểu thêm. Từ đó anh tìm ra một triết gia, sư phụ của Thiel, giáo sư Rene Girard, mà Vance gọi là “triết gia”.
Một trong các lý thuyết của Girard gây ảnh hưởng sâu sắc lên Thiel và Vance là lý thuyết về ham muốn. Thường thì ta quan niệm, theo trực giác, rằng ham muốn có gốc rễ sâu từ trong tâm khảm mỗi con người, có từ trong vô thức, tiềm thức. Nhưng thuyết của Girard thì khác. Ham muốn mà bản năng như vậy là ở loài vật. Còn ham muốn của chúng ta là con người. Ham muốn của con người chẳng qua là con người bắt chước nhau. Girard tìm ra cấu trúc tam giác Object, Subject và Model. Giữa chủ thể (người thèm muốn) và khách thể (cái được ham muốn) là cấu trúc chung cho ham muốn của con người.
Nhân vật của Cervantes (Don Quixote) có ham muốn thành hiệp sĩ là từ các mẫu hình trong sách kiếm hiệp mà anh này đọc. Nhân vật trong “Bà Bovary” của Flaubert có hình mẫu từ các tiểu thuyết bình dân. Tương tự vậy là nhân vật quý tộc trẻ trong “Đỏ và Đen” của Stendhal Họ may mắn có ham muốn từ bắt chước ở những nhân vật hư cấu, hoặc nhân vật có thật nhưng xa họ. Nếu ham muốn của ta là bắt chước từ những người xung quanh, như anh hàng xóm, bạn cùng lớp thì sẽ gây ra cạnh tranh. Ta cũng bắt chước anh hàng xóm mà thích cô bé cuối xóm, thì sẽ xảy ra vòng xoáy cạnh tranh, lúc đầu ta bắt chước anh hàng xóm, rồi anh hàng xóm thấy ta cũng thích cô bé cuối xóm, anh sẽ lại bắt chước ta.
Con người có ham muốn vì bắt trước qua lại lẫn nhau, trong cái cấu trúc tam giác chung Chủ thể Khách Thể và Hình Mẫu. Nhưng khách thể không chỉ là món đồ chơi, là tiền bạc, là cô gái hàng xóm, mà còn là sự công nhận, địa vị và quyền lực. Tất cả sẽ dẫn đến cuộc cạnh tranh, rồi ganh đua quyết liệt. Nó leo thang, trở thành ghen tỵ, rồi thành cừu địch, những cừu địch do bắt trước (mimetic rivalry). Không chỉ ở cấp độ con người, mà ở tập thể, xã hội, dân tộc và quốc gia.
*
Vance bị lý thuyết “ham muốn do bắt chước – mimetic desire” này cuốn hút, và anh hiểu rằng cuộc cạnh tranh sát ván ở trường Luật Yale, ở các hãng luật, ở khắp nơi trong chế độ “tinh anh trị” (meritocracy) đều là do “mimetic desire”. Và mọi người sẽ dần nhìn nhau như kẻ thù, dù thực ra họ chỉ bắt chước lẫn nhau. Trong khi đó Tin Mừng và Công Giáo dạy yêu thương và nhường nhịn lẫn nhau. Đó sẽ là một hướng đi, một con đường cho Kháng chiến, chống lại văn hoá cạnh tranh khốc liệt ở các lĩnh vực chuyên môn (professional competition). Vance vào đạo Công giáo năm 2019. Ra trường anh tham gia hết công ty luật elite này đến công ty elite khác, trải qua các cuộc cạnh tranh sát ván, hiểu được thế nào là ““mimetic rivalry” thực chất chỉ là bắt chước nhau. Anh thay đổi dần, chuyển đến Silicon Valley làm cho Thiel, viết báo, viết sách và cuối cùng được Thiel cấp tiền để chạy đua thành công vào Thượng Viện.
Trích bài viết của J.D. Vance trên The Lamp.
“Cũng quãng thời gian đó, tôi có dự một buổi nói chuyện ở trường luật của chúng tôi với diễn giả là Peter Thiel. Đó là năm 2011, còn Thiel là một nhà đầu tư mạo hiểm nổi tiếng nhưng người thường chẳng mấy ai biết đến.
Anh ấy nói từ suy tư cá nhân: anh lập luận rằng chúng tôi ngày càng bị cuốn vào những cuộc cạnh tranh nghề nghiệp khốc liệt. Chúng tôi sẽ cạnh tranh để được làm thư ký tòa phúc thẩm, rồi đến thư ký Tòa án Tối cao. Chúng tôi sẽ cạnh tranh để có việc làm ở các hãng luật hàng đầu, rồi sau đó được lên làm partner tại chính những hãng luật đó. Anh ấy nói rằng, đến một lúc công việc của chúng tôi tốn nhiều giờ hơn, trở nên xa lánh đồng nghiệp, rồi thì danh tiếng không thể bù đắp được sự vô nghĩa của công việc. Anh cũng lập luận rằng Thung lũng Silicon của anh ấy cũng dành quá ít thời gian để tìm ra những đột phá công nghệ giúp cuộc sống tốt đẹp hơn – những đột phá trong lĩnh vực sinh học, năng lượng và giao thông – nhưng lại dành quá nhiều thời gian cho những thứ như phần mềm và điện thoại di động. Giờ đây, ai cũng có thể tweet cho nhau, hoặc đăng ảnh lên Facebook, nhưng việc di chuyển đến châu Âu lại mất nhiều thời gian hơn, chúng ta chưa có cách chữa trị các bệnh nan y như suy giảm nhận thức và chứng mất trí nhớ, còn việc sử dụng năng lượng ngày càng làm ô nhiễm hành tinh. Anh ấy nhận ra hai xu hướng – giới chuyên gia tinh hoa bị mắc kẹt trong những công việc cạnh tranh khốc liệt, và sự trì trệ công nghệ của xã hội – có mối liên hệ với nhau. Nếu đổi mới công nghệ thực sự thúc đẩy sự thịnh vượng, giới tinh hoa của chúng ta sẽ không cảm thấy ngày càng phải cạnh tranh với nhau nhiều hơn trong khi kết quả xuất sắc mà cuộc cạnh tranh ấy đạt được ngày càng giảm.
Bài nói chuyện của Peter đến nay vẫn là khoảnh khắc quan trọng nhất quãng thời gian tôi ở Trường Luật Đại học Yale. Ông ấy đã diễn đạt một cảm giác mà cho đến lúc đó trong tôi vẫn chưa hình thành: rằng tôi bị ám ảnh bởi thành tích trong công việc – đó không phải là mục đích của một điều gì đó có ý nghĩa, mà chỉ là để chiến thắng trong một cuộc thi xã hội.”
(J.D. Vance – Tại sao tôi gia nhập Kháng chiến – Dịch bằng Gúc)
*
Như ta thấy, Peter Thiel trở thành một nhà đầu tư tiên tri, tức là những công ty anh bỏ tiền vào không chỉ thành công mà còn mở ra một ngành mới, ở đó những công ty “của anh” và nhân sự cao cấp “của anh” không phải cạnh tranh đến chết để tạo ra rất ít thành công.
Thiel kể rằng (lười tra lại audio) anh gặp Girard cuối những năm 80 đầu những năm 90, khi anh là sinh viên bậc đại học Stanford, còn Girard dạy triết. Hai người tham gia các nhóm đọc sách và nói chuyện với nhau nhiều. Đại khái chính là một kiểu mentor về tư tưởng. Nhưng phải vài năm sau Thiel mới hiểu hết những ý tưởng của Girard và nó như là tia sét đánh vào não anh. Thiel chuyển trạng thái nhận thức và trở thành một trong những nhà đầu tư mạo hiểm thành công nhất, và là nhà tư tưởng có sức ảnh hướng nhất, ở Thung lũng Silicon.
*
Tháng Năm năm 2025, tức là sau bài báo về tôn giáo của Vance chưa đến một năm còn Trump Vance đã đắc cử, tờ New Yorker có bài viết “Tại sao các ý tưởng tốt lại lặng lẽ chết yểu, còn các ý tưởng tồi lại go viral”. Đây là bài review cho một cuốn sách tên là “Antimemetics: Why Some Ideas Resist Spreading”. Trong bài đưa ra nhiều cách giải thích, trong đó nhắc đến cách giải thích của Thiel sử dụng lý thuyết của Girard. Nhưng lúc này, khác với một năm trước còn phải giải thích Girard là ai, tờ báo nói đại ý là Thiel diễn giải và truyền bá tư tưởng của Girard (cho đám cánh hữu) nhiều đến mức cạn kiệt.
Thiel cho rằng internet không phải là kênh để con người lên đó tìm các bằng chứng, dữ kiện để xây dựng nên thế giới quan của riêng mình. Ngược lại, con người lên internet để tìm thế giới quan nào đó trùng khớp với mong muốn (ham muốn) của họ. Mạng xã hội còn góp phần thổi phồng những thứ này thêm. Ham muốn của con người lại là do bắt chước lẫn nhau. Bắt chước ham muốn có mặt tốt, giúp chúng ta học tập, thi đua, tiến bộ. Giúp con người có ham muốn giống nhau tụ lại thành các công đồng. Mọi người gắn kết, bằng hữu, vì có chung mong muốn. Nhưng sự ghen tỵ, ganh đua, cừu địch xuất hiện và tích luỹ dần. Không khí nồng nặc mùi thuốc súng, và phải có cái gì đó bùng nổ. Đây là lúc phần cốt lõi trong lý thuyết của Girard được sử dụng để giải thích cơ chế xảy ra khủng hoảng (crisis) ở cộng đồng, xã hội và cơ chế giải quyết cơn khủng hoảng ấy. Phần cốt lõi này có tên gọi “cơ chế tìm vật thế thần – scapegoat mechanism.” Mỗi khi xã hội, bộ tộc, cộng đồng rơi vào chia rẽ do ganh đua và cừu địch, sẽ có những cá thể “khác biệt” với số đông sẽ bị chọn ra để làm vật tế thần, bạo lực tập thể sẽ dồn vào con dê tế thần này và sau đó khủng hoảng sẽ tự tắt. Số đông muốn biết ai đứng về phía mình, thuộc về mình, bằng cách chọn ra một nhân vật để tế thần. Những người cùng nhau đổ lỗi buộc tội và sử dụng bạo lực lên nhân vật bị tế thần ấy, sẽ cùng nhau đứng chung vào một nhóm. Bạo lực sinh ra không phải do khác biệt, nó sinh ra bởi những người có ham muốn giống nhau. Phương thức kiểm soát bạo lực chính là chọn một nạn nhân, đoàn kết với nhau và đổ lỗi cho nạn nhân này. Cơ chế đổ lỗi và bạo lực kèm theo sẽ giải quyết khủng hoảng và cứu vãn hoà bình cho cộng đồng (xã hội, dân tộc, quốc gia).
Trong phiên bản hiện đại, ở cánh hữu, đổ tội cho con dê tế thần (scapegoating) là cơn cuồng bài ngoại, ở cánh tả đó là kiểm duyệt và văn hoá huỷ bỏ (cancel culture).
Các bài phê bình và đổ tội cho Big Tech cũng là một dạng scapegoating, và chỉ có chất lượng tầm thường nếu thấu hiểu Girard. Cho nên Palantir của Thiel là công ty bị căm ghét từ trước khi nổi tiếng mà cuối cùng nó vẫn cứ nổi tiếng và thành công là vì Thiel hiểu sớm được tư tưởng và lý thuyết của Girard. (Wall Street Journal có bài “Palantir: Tay chơi từ bị ruồng bỏ đến quyền lực”)
Như vậy, Thiel từ trẻ đã thấu hiểu, theo cách của Girard về cơn cuồng của đám đông (madness of crowds), và thấy rằng nó khác hẳn trí khôn của đám đông (wisdom of crowds) của các nhà tư tưởng khác, như Malcolm Gladwell. Anh cũng hiểu cơ chế vận hành của các hội nhóm, cộng đồng trên internet. Hiểu tác dụng của mạng xã hội (từ lúc nó chưa ra đời). Hiểu cơ chế cạnh tranh đến chết và cách để vượt lên khỏi sự cạnh tranh ấy bằng cách đầu tư mạo hiểm vào các công ty mở ra các lĩnh vực mới mà ở đó nó không phải ganh đua với bất cứ ai. Và nếu biết vận dụng, những influencer (KOL, KOC) sẽ là cái máy tạo ra các ham muốn được bắt chước, và được internet và mạng xã hội khuếch đại, thổi bùng lên. Biết được lúc nào thông tin sẽ bùng nổ, và biết lúc nào nó tắt. Biết cách vận dụng tư duy của Girard vào internet và mobile sẽ tạo ra phong trào rộng lớn từ các nhóm nhỏ. Và cuối cùng có thể tạo ra cả một cuộc cách mạng Phản cách mạng để đưa Trump và Vance vào Nhà Trắng.
*
Rene Girard cho rằng cơ chế tìm nạn nhân (vô tội) để đổ lỗi, buộc tội và xả những cơn bạo lực lên nạn nhân là một trong rất nhiều thứ ẩn giấu có sẵn từ khi thế gian này được tạo lập (hidden since the foundation of the world.) Hay nói cách khác bạo lực, trả thù, đổ tội là vấn để kinh niên và có sẵn từ khi có loài người, nó không phải là vấn đề của sai lầm lý trí hay mất kiểm soát tâm lý. Ta có thể dùng lý thuyết này giải thích vô số vấn đề của VN cận đại và đương đại. (Cowen còn cho rằng xã hội học nên tiếp cận từ quan điểm nhân học trước khi tiếp cận từ kinh tế học.
Girard viết: “Chẳng có gì, hoặc gần như chẳng có gì, trong mọi hành vi của con người là không có được từ học hỏi, và mọi sự học hỏi đều dựa trên sự bắt chước”.
Sự bắt chước giúp chúng ta biết cách học tập, nhưng nó dẫn đến leo thang trong cạnh tranh, và rồi là ganh đua và kết thúc là bạo lực. Tôn giáo phát triển (từ tín ngưỡng) như một phương tiện để khu biệt sự ganh đua bằng cách phóng chiếu bạo lực cộng đồng lên một nạn nhân được chọn tùy tiện (tức là vật tế thần).
Trích từ bài viết của Vance trên The Lamp:
“Tư tưởng của Girard phong phú đến mức bất kỳ nỗ lực tóm tắt các ý tưởng này sẽ thành ra một sự thất bại trong việc đánh giá con người ông. Lý thuyết về ham muốn do bắt chước nhau – rằng chúng ta có xu hướng ganh đua nhau vì những thứ mà người khác muốn – nói ra một cách trực tiếp những áp lực mà tôi từng trải qua khi học đại học Yale. Nhưng lý thuyết của ông về vật tế thần – và những gì nó tiết lộ về Kitô giáo – mới khiến tôi xem xét lại đức tin của mình.
Một trong những hiểu biết cốt lõi của Girard đó là các nền văn minh nhân loại thường, thậm chí luôn luôn, được xây dựng trên một “huyền thoại về vật tế thần” – một hành động bạo lực chống lại một người được cho là gây hại cho cộng đồng, được truyền lại như một dạng chuyện kể về nguồn gốc cộng đồng.
Đối với Girard, các chuyện kể về Đức Kitô chứa đựng một sự khác biệt quan trọng—một sự khác biệt hé lộ cho nhân loại biết được rằng có điều gì đó “ẩn giấu từ khi tạo dựng thế giới”. Trong câu chuyện Kitô giáo [Tin Mừng], người chịu tội cuối cùng không làm hại nền văn minh; mà chính nền văn minh đã làm hại ông ấy [tức Chúa Jesus Kitô]. Nạn nhân của sự cuồng loạn của đám đông, giống như Chúa Kitô từng là nạn nhân, là người vô cùng quyền năng—có thể tự ngăn chặn việc mình bị sát hại—và người ấy hoàn toàn vô tội—không đáng phải chịu cơn thịnh nộ và bạo lực của đám đông. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy những nỗ lực đổ tội và đổ lỗi cho chính sự bất lực của mình lên nạn nhân vì bản chất của đám đông: một khiếm khuyết về đạo đức, phóng chiếu khiếm khuyết này một cách bạo lực lên người khác. Việc Chúa Kitô bị làm vật tế thần đã mạc khải cho chúng ta thấy sự bất toàn của mình và buộc chúng ta phải nhìn vào những thiếu sót của chính mình thay vì đổ lỗi cho những nạn nhân được xã hội lựa chọn.”
(J.D. Vance – Tại sao tôi gia nhập Kháng chiến – Dịch bằng Gúc)
*
Nhân học của Girard rất đặc biệt. Nó được ông pha trộn huyền thoại, tâm lý học, huyền học, ngộ giáo, thần học, kinh tế học, chính trị học và phân tích văn bản (phê bình kinh thánh và các tác giả kinh điển như Stendhal, Flaubert, Proust, Dostoevsky, Shakespeare và Cervantes). Ông cũng có những tiên tri chính xác, bằng cách sử dụng tri thức con người, về xung đột giữa các dân tộc, các cường quốc. Thậm chí dạy cả Peter Thiel cách “tiên tri” về kinh doanh, giúp Thiel trở thành nhà đầu ưtiên tri, vì các khoản đầu tư của Thiel không chỉ tạo ra vàng (midas touch) mà còn mở ra những ngành mới, mảng mới (Paypal, Facebook, Palantir).
Là một nhà giáo uyên bác, sáng tạo, giàu ý tưởng nhưng chẳng mấy ai biết Girard đến ngoài các sinh viên bậc đại học ở Stanford những năm 198x, 199x. Một lý do ông khó nổi tiếng vì nhiều người cho rằng lý thuyết hoàn toàn dựa vào văn bản văn học và tôn giáo như như vậy, thiếu vắng dữ liêụ thực nghiệm, thì không đáng tin. Cũng như phân tâm học của Freud, thuyết của Girard cũng không phải lý thuyết có thể kiểm sai (falsifiable) kiểu Popper và do đó không phải là “khoa học chặt chẽ”. Thế nhưng, như Geoffrey Hinton nói về phân tâm học “là kết hợp của vài thứ vô nghĩa với vài thứ insightfull”, lý thuyết của Girard cũng vậy. Thuyết của Girard có thể “fit mọi data”. Có thể dùng lý thuyết của ông dùng để giải thích xung đột và bạo lực đã và đang xảy ra ở các khu vực, dự đoán được các xung đột giữa các dân tộc và quốc gia. Khi các xung đột này thực sự xảy ra (Israel-Palestin, Mỹ-Trung) thì tự nhiên lại các dữ liệu thực tế củng cố cho lý thuyết Girard. Và ông trở thành nhà tiên tri của thời đại (Chính trị học bắt chước – Mimetic politics). (Như trên đã viết, tiên tri chiến tranh thương mại Mỹ Trung được Girard viết trong cuốn sách bình luận về binh pháp gia Carl von Clausewitz in năm 2009 tên là “Battling to the End”.)
*
“Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần” là câu Chúa Jesu tiên tri về hành vi của thánh Phê Rô (Peter) người sau này đứng đầu Hội Thánh. Lúc này Jesus chưa bị hành hình còn Peter vẫn là môn đệ đi theo thầy. Khi Jesus bj bắt, Peter lén đi theo đến dinh thượng tế để xem người ta tra khảo Jesus. René Girard diễn giải câu chuyện này khác với các bài giảng thánh kinh truyền thống (cho rằng Peter Chối Chúa là sự yếu đuối của mỗi con người.
Girard cho rằng Peter chối Chúa, là câu chuyện lớn của kinh thánh. Peter xử sụ rất tầm thường, bình thường, như mọi cá nhân khác. Khi bị một người hầu gái trẻ hỏi “Peter có phải là người cùng hội với Jesus không vì cô nhận ra anh có giọng nói khác biệt (Peter nói giọng Galile, còn người dân xung quanh lúc đó nói giọng Jerusalem) chứng tỏ anh là người ngoài, không phải người “của bọn tôi”, thì Peter trả lời rằng “tôi không đi cùng người bị bắt (tức là Jesus). Girard đặt ra câu hỏi, nếu người hỏi không phải là người hầu gái trẻ hỏi mà là bà già thì Peter có chối không. Peter chối là để chứng minh “tôi cũng là người giống như các cô, thuộc về nhóm dân như các cô”.
Peter phải chối Chúa vì bị ảnh hưởng/lây nhiễm từ áp lực của đám đông hung hãn (mob pressure). Peter phải tìm cách đứng chunng vào cùng họ, có chung kẻ thù với họ, thuộc về họ, cùng họ chỉ tay buộc tội một con dê làm vật tế thần (tức là kết tội Jesus). Nhưng sự hy sinh của người bị đổ lỗi, buộc tội, tế thần là sự hy sinh của nạn nhận vô tội. Sau đó nạn nhân trở thành quyền năng lớn, lớn hơn quyền năng của đám đông. Hành động chối Chúa của Peter không có nguồn gốc vô thức, mà chỉ là lời nói vô thức. Nó không vô thức vì nó là hành động bị đám đông thúc đẩy. Peter chẳng hiểu (không ý thức được) việc mình làm.
Girard nói rằng, mới chỉ vài thế kỷ trước, ai cũng tin vào Chúa, nay chẳng ai tin vào Chúa nữa. Đó không phải vì sức mạnh của khoa học, mà chỉ là hiện tượng xảy ra khi ai cũng phải chịu áp lực của đám đông hung hãn (mob phenomenon). Đây chính là Peter chối Chúa của thời hiện đại. Nhưng khi nghe gà gáy, Peter thức tỉnh, bởi Chúa là thầy, truyền cho anh kiến thức, Chúa cũng tiên tri rằng lúc gà gáy sáng anh sẽ phản chúa ba lần. Tiên tri của Jesus ở đây không phải là một nguồn cảm hứng thần thánh (để thức tỉnh Peter) mà là tri thức về con người, giúp Peter hiểu con người, cộng đồng, xã hội, qua đó chuyển đổi trạng thái của Peter, biến ông từ một cá nhân bình thường với đủ các tâm lý sợ hãi yếu hèn hoà lẫn trong đám đông trở thành một vị tông đồ đại diện cho các tông đồ (đứng đầu Hội thánh).
Peter chối Chúa là câu chuyện ai theo đạo cũng biết, và vì chuyện này mà nhà thờ hay có con gà trên mái (nhà thờ Con Gà ở Đà Lạt). Nhưng cách René Girard diễn giải lại câu chuyện này từ góc nhìn của nhân học (như trên), tự nhiên nó có sức lay động khác thường.
*
Mới đây tờ Financial Times có bài “Tôi có thể học được gì từ René Girard” có tóm tắt lại các pha ăn miếng trả miếng, đòn thù phang qua phang lại nhau của hai phe chính trị Mỹ kể từ 1980 đến nhiệm kỳ hiện tại của Trump rồi lý giải nó bằng lý thuyết của Girard. Kết thúc bài báo là một câu trích dẫn của Girard: “Bạo lực luôn được coi là một sự trả thù chính đáng. Không ai cảm thấy có trách nhiệm về việc chính mình đã kích hoạt nó.”
Bài cũng trích một câu khác của Girard: “Hãy chọn kẻ thù của bạn một cách cẩn thận; vì chẳng mấy mà bạn sẽ trở nên giống họ.”
*
René Girard nói:
“Khi giới được toàn cầu hóa, ta có thể đốt cháy tất cả chỉ bằng một que diêm.”
“Chúng ta nhận thức được rằng toàn cầu hóa không mang nghĩa một tình bằng hữu toàn cầu mà là ganh đua toàn cầu, và do đó sẽ dẫn đến xung đột. Điều đó không có nghĩa rằng chúng ta sẽ hủy diệt lẫn nhau, nhưng đó cũng không phải là một ngôi làng toàn cầu hạnh phúc.”
“Cái tôi sâu sắc là cái tôi phổ quát.”
“Cứ nhìn vào giới học thuật, đó là một đàn cừu khổng lồ con nào cũng giống nhau đều là chủ nghĩa cá nhân.”
Hãy chọn kẻ thù của bạn một cách cẩn thận vì bạn sẽ trở nên giống họ.” ~
“Ngày nay, ít người muốn trở thành thánh nhân, nhưng ai cũng đang cố giảm cân.”
*
Girard cho rằng con người là giống loài có thể phá huỷ chính thế giới của mình. Ý tưởng của ông là kẻ thù luôn bắt chước nhau và leo thang đến ngưỡng cực đoan (escalating to extremes). Xung đột tôn giáo, lãnh thổ, vũ trang chắc chắn sẽ leo thang, bởi khủng hoảng lớn sẽ xảy ra khi cơ chế tìm nạn nhân để đổ lỗi thất bại. Bạo lực sẽ lan tràn và sẽ là tận thế. Cách duy nhất để dừng vòng xoáy leo thang là dùng phi bạo lực để đáp trả bạo lực. Như Chúa nói, người ta tát anh má này, hãy chìa má kia ra. Hay như VN nói, lùi một bước trời yên biển lặng.
Nhưng đó là câu chuyện của thế giới, còn chuyện của VN, chưa thấy một nhà tư tưởng nào, một triết gia nào, một người hành động nào thấm nhuần các tư tưởng hiện đại, nhìn xuyên thấu vào tâm can xã hội và hiện tượng, để có những giải pháp kiểu Peter Thiel.
Hoặc ít nhất, là để thế hệ trẻ sống ý nghĩa trong một xã hội có ý nghĩa và một thế giới quan có nghĩa, thay vì phải sống trong một xã hội ganh đua chết người vì vật chất và nghề nghiệp
*
Hôm nay 19/8, bài này là kết thúc loạt bài kỷ niệm cách mạng 80 năm. Bắt đầu từ bài Vương Hộ Ninh, qua loạt bài về AI, Peter Thiel và Curtis Yarvin. Kết thúc bằng René Girard.
July 21, 2025
Ai đã giác ngộ và huấn luyện Peter Thiel, Musk và phó tổng thống JD Vance?
Câu trả lời là Curtis Yarvin.
Tháng Năm và Sáu năm 2025, khi Trump đi qua 100 ngày đầu tiên của nhiệm kỳ 2 ở Nhà Trắng (Trump 2.0) thì một loạt báo trong đó có New Yorker lên bài về việc gây sửng sốt: tất tần tật những gì Trump thực hiện, hoặc cố gắng thực hiện, hoặc tuyên bố sẽ thực hiện đều khớp một cách kỳ lạ với một bản kế hoạch chi tiết (blueprint) do Curtis Yarvin vạch ra từ năm 2012 (từ trước cả nhiệm kỳ 1 của Trump).
Trump muốn trục xuất hết dân Palestine khỏi Gaza rồi biến Gaza thành khu bất động sản nghỉ dưỡng cao cấp (riviera) 100% dựa vào ý tưởng của Yarvin. Thậm chí Yarvin còn nói rõ là Jared Kushner con rể Trump nên là nhà phát triển khu bất động sản đó.
Kế hoạch sa thải tất cả công chức (quan liêu) của các cơ quan Liên Bang và thay thế bằng những người trung thành như Vance từng tuyên bố, hay như Doge của Musk nỗ lực thực hiện, là ý tưởng và kế hoạch của Yarvin. Thái độ phớt lờ các ngăn cản pháp lý chống lại việc thay máu hệ thống quan liêu này (các phán quyết “vi hiến” của toà án), cũng từ Yarvin mà ra. (Sa thải công chức, Yarvin gọi là Thịnh Nộ – Rage: Retire All Government Employees, tức là một cuộc tinh giản toàn diện nếu nói theo kiểu VN.)
Ý tưởng công phá toàn diện vào gốc rễ hệ thống báo chí chính thống và tiếp đó là lật đổ các định chế đại học lừng danh và các viện nghiên cứu khoa học hàng đầu của Hoa Kỳ, xoá bỏ hàng loạt các cơ quan chính phủ và dẹp bỏ tổ chức NGO mà Trump đang ồ ạt thực hiện… cũng là ý tưởng do Yarvin khởi xướng và kiên trì thúc đẩy.
Curtis Yarvin lập bản kế hoạch này hoàn toàn một mình, rồi truyền bá, giác ngộ, kích động một tập hợp (lúc đó còn tương đối trẻ) các nhân vật cộm cán ở Bay Area và Silicon Valley biến nó thành hành động. Ba nhân vật quan trọng nhất trong cuộc phản cách mạng cực kỳ thành công này là Peter Thiel, Elon Musk, Marc Andreessen và JD. Vance. Ảnh của Yarvin trên New Yorker, phần caption ghi: “Yarvin muốn phá huỷ nền dân chủ. Trong số fan của ông này có Peter Thiel, Marc Andreessen, và J. D. Vance.”
Tỷ phú Andreessen, tác giả của bản tuyên ngôn mang phong cách phát xít Ý “Techno-Optimist Manifesto” là trợ lý không chính thức của Trump đương đại và là key person trong Doge của Musk.
J.D. Vance là nhân viên cũ của Peter Thiel, được Thiel cấp cho 15 triệu đô để chạy đua vào nghị viện và giờ đây là phó tổng thống Hoa Kỳ.
Cả Andreessen và Vance đều công khai nhắc đến Yarvin các tư tưởng của anh này.
*
Ở Việt Nam, khoảng 10 năm trước giới trẻ sinh quãng giữa 199x bắt đầu nói đến chọn blue pill hay red pill. Chọn blue pill tức là chọn tiếp tục ở lại thế giới vô minh, giữ cho mình vô tri, nhưng hạnh phúc. Còn chọn red pill là chọn bước ra thực tại phũ phàng và nhiều đau đớn. Mặc dù nó có nguồn gốc từ một xen nổi tiếng trong The Matrix, nhưng Yarvin là người biến “lựa chọn red hay blue pill” thành một metaphor về thức tỉnh ý thức hệ – một ý thức hệ của Silicon Valley.
Ý thức hệ ấy là của những con người vốn sẵn phóng khoáng trong giới công nghệ – libertarian techies, theo đuổi chủ nghĩa phóng khoáng – liberalism.
Lúc này, tức là khoảng 20 năm trước, chủ nghĩa phóng khoáng bắt đầu bị cả tả hữu công kích. Bên tả cho rằng chủ nghĩa phóng khoáng quá chậm chạp để giải quyết các vấn đề nổi cộm (như biến đổi khí hậu) và cần những hành động cực đoan hơn (như bôi bẩn các tác phẩm hội hoạ). Bên hữu cho rằng phóng khoáng biến chính trị Mỹ thành tả khuynh và làm suy tàn nền kinh tế tư bản.
Những người phóng khoáng như Thiel bắt đầu chuyển dịch dần sang hữu, rồi cực hữu, dưới ảnh hưởng của Yarvin. Họ trở thành một thứ subculture cực hữu mà ngay cả đám cánh hữu truyền thống lúc đầu cũng e ngại. Vậy nên những người dịch chuyển qua cực hữu phải giữ kín quan điểm, lập trường và các quan hệ của mình.
Đến Trump 1.0 thì họ bắt đầu mạnh dạn hơn, công khai hơn, cởi mở hơn. Đến Trump 2.0 thì họ gần như là lực lượng nổi dậy thành công, lề trái trở thành lề chính, cực hữu công nghệ trở thành ngọn cờ đầu của chính trị. Các nhà xuất bản cực hữu bắt đầu in trước tác của Curtis Yarvin. Tháng Giêng 2025, tờ báo tri thức cánh tả New York Time phải mời Curtis Yarvin lên kênh The Interview của họ để trả lời phỏng vấn.
[Btw, theo mình thì The Atlantic có lẽ còn tả hơn, dù còn xa mới tả như báo VN. Nhưng thi thoảng họ có những bài rất xuất sắc, đọc rất ấn tượng, dù mình không phải fan báo này, chỉ lâu lâu mới đọc.]
Sub-culture của Yarvin đã thành mainstream khuấy đảo chính trị Hoa Kỳ và làm rối não cả thế giới. Y như nhóm nhạc nhỏ Nivarna ở một thị trấn nhỏ xa xôi hẻo lánh của nước Mỹ, hát một thứ nhạc sub-genre và underground bất ngờ thành mainstream lan đi khắp toàn cầu.
*
Rất khó mô tả Curtis Yarvin một cách cụ thể, nếu nhìn từ Việt Nam. Đại khái anh này, sinh năm 1973, nếu nhìn từ VN là một cậu bé cấp hai thì tự học ở nhà, cấp ba thì học năng khiếu (chuyên) toán, vào đại học sớm, học một ngành thời thượng lúc đó là lập trình, đến PhD được một năm thì bỏ học đi mở công ty phần mềm, lướt sóng đúng lúc dotcom bùng nổ đợt đầu, có vài triệu đô (rất lớn thời đó) nên bỏ việc, đọc sách, nghiên cứu và viết blog. Trở thành một blogger hấp dẫn (thông minh, nhiều ý tưởng, dí dỏm, gắt, độc đoán, vận dụng lịch sử và triết học rất thô bạo để phục vụ chủ kiến và lý luận của mình) ở Bay Area (và ở bất cứ đâu trên thế giới) cũng trở nên nổi tiếng trong giới trẻ cấp tiến, có sức ảnh hưởng và có nhiều quan hệ cá nhân.
Trong quá trình đó, bỗng một ngày Yarvin chọn được viên red pill cho chính mình, khi anh này đọc sách của một giáo sư kinh tế far right là Hans-Hermann Hopp. Hopp được coi là gateway để đến với tri thức cực hữu. Ảnh hưởng của Hopp lên Yarvin rất rõ nét khi có cùng tư tưởng chia nước các quốc gia thành các lãnh địa nhỏ (patchwork), vận hành như doanh nghiệp với một vị quốc chủ (sovereign ruler) giống như một CEO. Các lãnh địa này gọi là Sovereign Corporate, viết tắt là SovCorp. Cuốn sách mà Yarvin viết về sau này có tên Pathwork.
Blog của Yarvin ra đời năm 2008 (lúc đó Trump còn là đảng viên đảng Dân Chủ) lúc đầu được viết dưới bút danh Mencius Moldbug. Ngày nay khi không còn là cánh hữu lề trái phải ẩn giấu nữa, thậm chí còn nổi đình nổi đám như một nhà tư tưởng chủ lưu của cánh hữu, Yarvin gom các bài viết của mình thành các cuốn sách, xuất bản chính thức hoặc ebook, và đặt cùng các tiểu luận khác lên website Unqualified Reservations. Lời dẫn của website này chào mời bạn đọc đến để “cure your brain” bằng các red pill. Yarvin hướng dẫn bạn đọc đọc các cuốn sách nào, tiểu luận nào, để làm gì. Với các bạn đọc bận rộn, Yarvin có hẳn ba tiểu luận vắn để nhập môn, trong đó có tuyên ngôn “A formalist manifestor” để dẫn nhập vào dòng triết học Tân Phản động.
[Yarvin tin rằng cách mạng Anh, cách mạng Mỹ đã đi quá xa, anh quay về với phong trào phản động thế kỷ 17,18, chống lại nghị viện, ủng hộ quyền thiêng liêng của nhà vua, nên phong trào mới của Yarvin có tên Neo-reaction, Tân Phản-động.]
Cũng năm 2008 này, Yarvin viết “An Open Letter to Open-Minded Progressives”, qua đó giới thiệu một lý thuyết phá bỏ toàn bộ những gì nước Mỹ đang có, là giới hàn lâm, trí thức, báo chí, vốn vô tình hoặc toa rập tạo nên một đồng thuận thiên tả phóng khoáng (left-liberal). Anh đòi reboot lại tất cả cấu trúc xã hội, xoá bỏ nền pháp quyền và giao quyền lực vào tay một CEO của nước Mỹ.
*
Xuất thân lập trình nên Yarvin hay dùng các thuật ngữ máy tính vào triết học và chính trị. Với anh, nền dân chủ là một bản beta thất bại. Chế độ dân chủ đại diện quá ngây thơ, để cho nhà nước tiến hoá thành một hệ thống kiểu đầu sỏ (oligarchy) rồi hệ thống đầu sỏ tha hoá (corrupt) thành một con quái vật kinh khủng được vận hành bởi một mạng lưới liên kết chặt chẽ giữa giới đại học, truyền thông dòng chính và quan chức chính phủ. Dân Mỹ tin vào hệ thống bầu cử và tính chính danh của nhà nước do họ bầu lên. Yarvin không tin và thúc đẩy những người khác không tin như vậy (như Trump phủ nhận kết quả đắc cử của Biden là kết quả phái sinh từ ảnh hưởng của Yarvin). Cả hai đảng phái đều bị Yarvin phủ nhận, cũng như Thiel gần đây thừa nhận ủng hộ Trump chỉ như một nhân tố có tính phá huỷ hệ thống, hay Vance công khai phản đối giới đại học “The Universities are the Enemy”. Bởi theo Yarvin ai nắm Nhà Trắng (mà anh gọi là Cathedral/Nhà thờ Chánh toà) sẽ là người nắm QUYỀN quyết định phải trái đúng sai.
Và cần phải lật đổ The Cathedral và tất cả hệ thống ngầm vận hành nó. Phải có ai đó đắc cử (Trump, Vance), phải giật sập báo chí dòng chính, phải đuổi hết công chức, phải giật sập đại học, phải phá huỷ truyền thông, phải làm mất tính chính danh của hệ thống bầu cử và đảng phái.
Tức là Yarvin, Thiel, Musk, Andreessen… không quan tâm đến cải cách chính phủ, họ muốn một hệ thống mới. Hệ thống ấy đều có điểm chung với một hình mẫu hệ thống của Yarvin: Quân chủ Công Nghệ. Đây là điểm khác của nhóm này (cực hữu công nghệ) so với nhóm cánh hữu truyền thống (cố gắng duy trì small goverment và để thị trường vận hành phần còn lại).
Nhóm Yarvin và các tỷ phú công nghệ tin rằng chính phủ dân chủ (như đã và đang có) đã tiến hoá thành một con thú khổng lồ, chậm chạp và tốn kém. Mỗi một thay đổi của nó lại phải “lắng nghe ý dân”, mà ý kiến của đám đông, theo họ, thì không thể nào sáng suốt được (quần chúng nhân dân là đám đông ngu ngốc). Đám đông thậm chí không tự quyết nổi cuộc sống của họ, nên họ đặt niềm tin vào đại diện của họ (Mỹ là dân chủ đại diện) là niềm tin ngây ngô.
Cần phải thay đổi triệt để, như cách các doanh nhân ở Silicon Valley vẫn đã đang làm và cực kỳ thành công: cứ tiến thật nhanh và phá tất những gì vướng mắc”. (Vừa xếp hàng vừa chạy, cũng là một phiên bản).
Yarvin đề xuất mô hình Quân chủ, nhưng ông Vua lại được thiết kế như một nhà công nghệ khởi nghiệp (founder) được bổ nhiệm vào chức CEO. Một CEO-King. Đây là một cách diễn đạt thay cho độc tài (dictator) bởi CEO là người quyết hết. Một chế độ chuyên chế, một hệ thống cai trị bằng công nghệ, một ông Vua CEO thông minh và quyết đoán, lại thấm đẫm văn hoá khởi nghiệp tiến băng băng bẻ gãy mọi quy định và rào cản, đó là nền quân chủ công nghệ.
Cũng vậy, thay vì một nền cộng hoà do dân và vì dân, thì Alexander Karp, CEO của Palantir, đề xuất nền cộng hoà công nghệ (technological republic), nơi mọi thứ (quyền) gắn với sở hữu và chính phủ hành động và định hình như một công ty công nghệ khởi nghiệp, một người khôn sẽ phân bổ nguồn lực và định hướng tương lai thay vì để một đám đông ngu muội bỏ phiếu cho chiến lược và đường hướng phát triển đất nước.
Đây cũng là quan điểm “Chính phủ là Một tập đoàn sở hữu một đất nước” của Yarvin, hay quan điểm “Chính phủ đơn giản là tập đoàn lớn nhất” của Musk.
Tới đây sẽ nảy sinh phiên bản cuối cùng, của một thứ dựa vào technosolutionism – chủ nghĩa dùng công nghệ giải quyết mọi vấn đề. Một hệ thống chính trị độc đoán, chuyên chế, được điều hành một cách “công phiệt”, tức là như quân phiệt mà thay military bằng technology, và các quyết định lớn phải được đưa ra từ một nhóm ưu tú thượng đẳng (các tỷ phú công nghệ). Hệ thống chính trị ấy có tên gọi Techno Fascism: Chủ nghĩa phát xít công nghệ.
Quan điểm thay vì cải cách chính trị thì ta phải vượt thoát khỏi nó thật nhanh rồi nhảy qua một hệ hình chính trị khác, bước luôn vào một tương lai hậu nhân loại (post human) và hậu chính trị (post political) có nguồn gốc từ triết gia đương đại Nick Land. Phải nói rằng, đây là một ý tưởng khá hay. Vì xét cho cùng, end of history, sẽ chẳng còn chính trị và nhân loại sẽ thành một thứ người lai với máy (transhumanism).
Trong ngôn ngữ của Yarvin, việc “exit” khỏi hệ thống đang tồn tại và bắt đầu một thứ hoàn toàn mới, được gọi là reset hoặc reboot (boot là khỏi động máy từ CMOS của máy tính PC, tức là khởi động lại từ mainboard).
Và dù tin hay không tin, thì những tháng qua Trump đã cai trị Hoa Kỳ như một vị quân vương, trong vương quốc của mình, sa thải nhân sự, cắt giảm kinh phí, tấn công báo chí, hạ bệ đại học, đóng cửa NGO, khinh thường toà án. Trum chính thức thành “American Caesar”, JD Vance cầm đầu đạo quân chống wokeism cùng Musk, và Musk dùng Doge để tấn công hệ thống quan liêu của chính phủ Liên Bang.
Cho đến khi Doge sụp đổ và Musk bất mãn chia tách với Trump.
*
Trong bài phỏng vấn hồi đầu năm trên New York Times anh Yarvin nói về tổng thống Franklin Delano Roosevelt vĩ đại của nước Mỹ, người dân Mỹ tôn sùng. Ông tổng thống này ra Quốc Hội và nói: Quốc hội hãy đưa tôi quyền lực tuyệt đối, không thì tôi sẽ lấy nó. Roosevelt hành động như một CEO, điều hành chính sách kinh tế mới (New Deal) với các dự luật dễ dàng được quốc hội thông qua, như điều hành một start up. Nhưng nước Mỹ ngày nay đã làm ngược lại. Chính quyền Washington cũng không khác gì một công ty khởi nghiệp với Alexandre Hamilton là đồng sáng lập công ty và điều hành toàn bộ chính phủ, y như Larry Page của nền cộng hoà Hoa Kỳ non trẻ lúc bấy giờ. Họ là national CEO. Nhưng có người dân Mỹ nào gọi họ là dictator đâu. Tờ New York Times cũng vận hành như một nền quân chủ. Nếu tôi bảo democracy là xấu, mọi người sẽ nhảy lên. Nhưng nếu tôi nói chính trị là xấu, dân tuý là xấu, mọi người sẽ bảo ừ đúng thế mà. Giờ tôi nói tiếp dân chủ là xấu, thì sẽ ok vì đã được bắc cầu. Vấn đề là chính phủ democracy không tốt. Cái mà người dân ủng hộ, cốt lõi lại là quý tộc chế (aristocracy) chứ không phải dân chủ chế vì tất cả hệ thống luật pháp đều do giới hàn lâm, những người uyên bác soạn ra. Bây giờ về cốt lõi cần một vị quân chủ Mỹ (nhà vua) làm tổng thống và bảo rằng nhân dân, các bạn đều là người tốt, các bạn chỉ bị nhồi thông tin sai lệch, chúng ta cùng nhau làm đất nước tốt đẹp lên. Những người xấu ấy là NPR people (khán giả đài NPR, bình dân hơn nếu so sánh với độc giả NYT vốn được cho là cao cấp hơn) chiếm tới 20% dân Mỹ, là rất nhiều. Họ là con người, và con người có thể ủng hộ những chế độ tồi tệ. JD Vance (xuất thân thấp) nhưng học luật ở Yale, nói trôi chảy ngôn ngữ của NYT, là cái mà Trump không có. [Mình vẫn nghe đài NPR, họ có các kênh science, philosophy, history khá hay, tuy đơn giản hoá cho dễ hiểu.]
Khi thế chế cũ của Mỹ tiến tới sụp đổ, như một công ty phá sản, thì những người phục vụ chế độ ấy (giới trí thức, hàn lâm) không nên bị chém đầu, đâm lưỡi lê (như cách mạng Pháp) vì thể chế mới vẫn dùng họ, chứ không phải là anti-aristocracy. Chúng tôi không làm như vậy.
Yarvin nói khi xem bầu cử 2016 với Peter Thiel thì thấy Thiel “hoàn toàn khai sáng”, hoàn toàn giác ngộ. Thiel bừng tỉnh sau khi sống trong bong bóng tiến bộ (có lẽ là tiến bộ theo nghĩa thiên tả) quá lâu. Sự bừng tỉnh này là việc nhận ra thiếu vắng các niềm tin. Các định chế lớn như NYT hay Harvard không luôn dẫn đến chân lý và trí tuệ, chính phủ Hoa Kỳ không hoạt động tốt. [Có lẽ vì vậy mà tư tưởng của Yarvin được gọi là Dark Enlightment, Khai sáng Hắc ám.] Sự vỡ mộng, hay tỉnh mộng này khiến chúng ta nhìn mọi thứ khác đi, thoát ra ngoài để nhìn, với tâm trí cởi mở hơn, để thấy các triết học chính trị và thể chế đang có đều lạc hậu. Sự khai sáng hoàn toàn có nghĩa là hoàn toàn vỡ mộng.
*
Quay lại năm 2008, trong lúc viết blog và ẩn danh thì Yarvin lập công ty Tlon, đặt tên theo một truyện của Borge, các nhà đầu tư có Peter Thiel và Marc Andreessen. Yarvin, theo New Yorker, trở thành Machiavelli của giới đầu tư mạo hiểm, và dần trở thành triết gia dạy dỗ tư tưởng cho giới elite ở Silicon Valley. Ở giai đoạn này họ vẫn phải hoạt động “bí mật”, các mối quan hệ cũng không công khai.
Năm 2009, Thiel viết một bài luận ngắn cho Cato Institute (mình cũng thi thoảng đọc cái Viện này mà thực sự không hiểu lắm). Bài luận được viral rất mạnh (nhưng hồi đó chưa có từ viral), trong đó có câu “Tôi không còn tin rằng tự do và dân chủ tương thích với nhau”.
Sau đó, từ subculture của Curtis Yavin, Peter Thiel đã nảy nở ra vô số các subculture hẹp hơn, với các hệ tư tưởng độc đáo kỳ lạ và quái dị như ở bài viết trước.
Đó là một social landscape cực kỳ kỳ lạ và thú vị. Thật là đáng để quan sát. Nhất là khi ở VN hoàn toàn thiếu vắng những thứ như thế.
Xem thêm: Peter Thiel và các hệ phái tư tưởng ở Silicon Valley và Bay Area
July 15, 2025
Peter Thiel và các hệ phái tư tưởng ở Silicon Valley và Bay Area
Hay tại sao tầng lớp ưu tú trẻ trung ở quanh Silicon Valley và Bay Area lại có thể làm xoay chuyển chính trị Hoa Kỳ và tới đây là thế giới.
Bài này là bài cuối trong loạt bài về Vương Hộ Ninh và Peter Thiel, AI và chính trị (gồm 8 bài nhỏ).
*
Quãng đầu năm 2025, tờ Wall Street Journal có một bài phóng sự khiến mình đặc biệt chú ý. Cảnh sát tuần tra biên giới ở Vermont dừng một chiếc xe hơi lại để kiểm tra. Trên xe có một số người, trước đó vài ngày bị chính quyền đặt vào dạng “giám sát định kỳ” do họ ăn mặc kiểu đặc nhiệm và mang theo vũ khí. Ngay khi xe dừng, một vụ đọ súng lập tức nổ ra khiến một cảnh sát thiệt mạng, nhóm trong xe cũng có một người chết. Người này là một nhà khoa học máy tính trẻ, gốc Đức, và là transgender (chuyển giới).
Nhóm người trong xe là thành viên của một nhóm lớn hơn trước đó dính líu đến vài vụ giết người rải rác. Các thành viên của có đặc điểm chung: trẻ tuổi, đều là dân computer science (khoa học máy tính), đều là vegan (một kiểu ăn chay, nhưng khác với ăn chay ở VN chúng ta), và đều quan tâm đến AI Safety (tức là lo rằng AI phát triển sẽ làm hại loài người, cần có kiềm chế để AI được an toàn). Một vài thành viên trong nhóm là transgender.
Ngoài phóng sự ngắn nói trên, tờ Wall Street Journal có một loạt bài viết về nhóm này. Họ được gọi là “các Zizian”. Xuất thân đều là thành viên của một cộng đồng rất ưu tú ở Bay Area và Silicon Valley có tên gọi là rationalist community (cộng đồng những người theo chủ nghĩa lý tính).
Tên gọi Zizians được đặt theo tên của thủ lĩnh nhóm là Ziz LaSota. Cô thủ lĩnh này là một transgender trẻ trung cao ráo, rất thông minh, đã từng làm thực tập sinh ở NASA, đang học dở thạc sĩ ngành khoa học máy tính thì bỏ qua Bay Area để tham gia “Cộng Đồng” và để gắn kết với một phong trào đang đơm hoa kết trái ở đó là phong trào Effective Altruism (Chủ nghĩa vị tha hiệu dụng).
Cộng đồng rationalist (sau đây gọi tắt là “Cộng Đồng”) là một cộng đồng “thượng lưu” nhưng lỏng lẻo. Cộng Đồng sinh hoạt online, hầu hết là những người trẻ tuổi tài năng, có IQ cực cao, và là dân công nghệ làm việc ở các hãng công nghệ hàng đầu thế giới, các quỹ đầu tư công nghệ, các tổ chức nghiên cứu công nghệ và sinh viên ở các đại học hạng nhất Hoa Kỳ. Đúng như tên gọi của cộng đồng, các thành viên cố gắng sống duy lý nhất có thể, thường xuyên xa vào các cuộc tranh luận online để tìm ra nhũng cái họ gọi là chân lý. Họ sử dụng rất nhiều memes, comics, dark humor và game, và lạm dụng biện luận đến mức xa rời thực tiễn. Đến đây mọi người có thể nhận ra Elon Musk là một tay rất điển hình của cộng đồng này. (Cuối bài mình sẽ điểm qua lập luận lên sao Hoả của Musk.)
Không gian tranh luận của Cộng Đồng là online, và forum quan trọng nhất của họ là Less Wrong. Less Wrong, thành lập 2009, bàn về tất cả những gì thời thượng nhất trong giới công nghệ đỉnh cao: triết học, ý thức, trí thông minh nhân tạo, tâm lý, kinh tế, kinh tế học hành vi. Nhưng hai dòng chảy quan trọng nhất trên forum này, và lôi kéo, gắn kết được rất nhiều thành viên, là AI, Effective Altruism, tranhumanism và extropianism.
[Riêng với Effective Altruism, có nhiều người chịu ảnh hưởng thuyết này sâu sắc trong đó có nhiều tỷ phú hoặc đại tỷ phú công nghệ. Các tay chơi nhà giàu này tài trợ để quảng bá hoạt động và tư tưởng của Effective Altruism đi khắp thế giới, hiện diện trên đủ các kênh truyền thông mà audience là giới trẻ, có tri thức, nhiều hoài bão và… mơ mộng. Trong số các tỷ phú này có cả Sam Bankman-Fried.
Mở ngoặc thêm, Le Bon nói người dân ở tầng lớp thấp thì tâm tư nguyện vọng suy nghĩ tôn giáo vân vân về cơ bản là đơn giản và giống nhau. Còn ở các tầng lớp cao, thì càng cao các cá nhân lại càng đa dạng về tư tưởng, thẩm mỹ, nhu cầu, lối sống. Cộng đồng rationalist vì vậy cũng rất đa dạng, không ai giống ai, các nhóm trở nên cực đoan và bạo lực như Zizians là rất đặc biệt, nên bị cộng đồng sút ra ngoài (trên Wall Street Journal có riêng một bài về việc này.)
Từ tên gọi của cộng đồng, ta có thể đoán được phương thức đi tìm chân lý của họ là rational reasoning, ta có thể đoán tiếp được là họ dùng Bayes (nhưng chắc chắn phần updating belief họ dùng data thiên kiến), và một trong các chủ đề mà họ quan tâm là cognitve bias (thiên lệch nhận thức).
Tên forum mà họ tranh luận, vì vậy, rất dễ hiểu, có tên là Less Wrong.
*
Như đã nhắc lại ở trên, các hệ tư tưởng ở Bay Area, một nơi dày đặc dân công nghệ trẻ và đặc biệt thông minh, nên rất phân kỳ và đa dạng, họ còn nhiều nhóm nhỏ tách ra với các tư tưởng vừa hấp dẫn, vừa cấp tiến, vừa kỳ bí như singularitarianism, longtermism, postrationalists. Tất cả những thứ này tạo ra một hỗn hống kỳ lạ nấp dưới một cái tên chung: Silicon Valley’s ideology (Ý thức hệ của thung lũng Silicon.)
Ziz LaSota đến Bay Area là để kết nối ngoài đời thực với Effective Altruism. Các bài viết của cô trên diễn đàn rất có ảnh hưởng, được cite rất nhiều (ta có thể nhớ đến tathy, thanh niên xa mẹ và các nick trên đấy đã từng có ảnh hưởng thế nào với một tầng lớp nào đó trong xã hội, chỉ khác là chưa tạo dựng được phong trào, do nhiều lý do). Cô này mua một cái tugboat và ở trên đấy. Dần dần LaSota trở thành thủ lĩnh còn Zizians trở nên giống một giáo phái. Họ cho rằng bán cầu não trái và phải là hai identity khác nhau, là nam, hoặc nữ, là thiện, hoặc ác, hoặc cả hai. Cuối cùng họ tiến hoá thành một tổ chức nhỏ, có vũ trang, gọi là Militant Veganism (Chủ nghĩa ăn chay quân sự), một thứ ăn chay cực đoan và có xu hướng hành động bạo lực với con người. Bản thân LaSota có đời sống thú vị, cô này fake cái chết của mình mà qua mặt được cả cảnh sát mãi cho đến khi vô tình bị lộ.
*
Người thành lập Less Wrong là Eliezer Yudkowsky (sinh năm 1979). Anh này ngoài việc không học cấp 3 mà vẫn trở thành dân computer science có số có má, thì còn là nhà lý luận của decision theory (tất nhiên rồi, nó là theory of rational choice), và là tác giả nhiều cuốn sách, trong đó có một cuốn gây ảnh hưởng đến nhiều thành viên của “cộng đồng”. Tên sách là: Harry Potter and the Methods of Rationality.
Eliezer Yudkowsky thành lập một tổ chứcc nghiên cứu tên là Machine Intelligence Research Institute. Tổ chức này tuyên bố mình trung thành và đi theo đường lối của Effective Altruism. Họ cũng là nơi dân công nghệ trẻ, nhiều tiền, tài năng đến từ các công ty công nghệ và đại học hàng đầu nước Mỹ lâu lâu tụ tập để chia sẻ về chủ thuyết transhumanism. Nếu ta quan tâm đến Musk và công ty gắn chip vào não của anh tỷ phú này, ta sẽ thấy đấy chính là hiện thực của transhumanism.
Còn ai là người tài trợ cho Machine Intelligence Research Institute? Chính là Peter Thiel và Vitalik Buterin.
*
Xung quanh Less Wrong và “Cộng Đồng” còn một tổ chức tên là Center for Applied Rationality (CFAR). Tổ chức này nghiên cứu về rationality (năng lực duy lý) và cognitive bias (thiên lệch nhận thức), nhưng cái họ nghiên cứu lại rất cụ thể, họ tìm tòi và cung cấp cho thành viên cộng đồng các kỹ thuật toán để năng cao năng lực duy lý (rationality) để từ đó hình thành một “niềm tin – belief” vững chắc và CHÍNH XÁC về thế giới.
Thiel Fellowship, một tổ chức của Thiel chi tiền cho các thanh niên tài năng nhưng… bỏ học số tiền đủ sống và nghiên cứu những gì họ muốn nghiên cứu trong vòng 2 năm (quãng 200 ngàn dollar), miễn là góp phần thúc đẩy khoa học. Center for Applied Rationality là nơi Thiel Fellowship gửi người đến học.
Center for Applied Rationality tuy vậy, và chắc là do vậy, bị Zizians cho là kẻ thù, và tấn công (nhưng cảnh sát kịp ngăn chặn.)
Các tổ chức và nhân vật kỳ dị, gây chia rẽ, hoặc đoàn kết, hấp dẫn hoặc e sợ ở “Cộng Đồng” và Less Wrong có rất nhiều. Mọi người có thể tìm xem thêm Astral Codex Ten (ACX) và vấn đề doxing (thuật ngữ chỉ việc công khai danh tính thật). Astral Codex Ten (ACX) là một cái tên, mọi người có thể liên tưởng đến cách Elon Musk đặt tên cho con, nó cũng là tư văn hoá đặt tên này của Silicon Valley. Nói chung rất dị, rất công nghệ, rất vượt quá suy nghĩ của người thường.
*
Những người theo thuyết duy lý (trong Cộng Đồng những người theo chủ nghĩa duy lý) luôn quan tâm đến cách thức đưa khoa học và xác suất (chủ yếu là Bayes) vào tất cả các chủ đề mà họ thảo luận, họ cố gắng duy lý đến mức không có suy nghĩ thiên kiến, từ đó đi đến được các kết luận (chân lý) không thiên kiến, kể cả kết luận ấy kinh hoàng độc ác đến thế nào đi chăng nữa. Tất nhiên nếu cái đích ấy mà phi nhân tính thì với họ cũng ok, họ chấp nhận. (Altruism, tức là thuyết vị tha hiện đại của Singer, một triết gia đương đại, rất có ảnh hưởng đến Cộng Đồng, thuyết này bảo về quyền của động vật và cổ suý tất cả các biện pháp giúp tối thiểu hoá nỗi khổ của động vật.)
*
Trong bài trước đã nói đến quan điểm của Peter Thiel về việc anh này lo sợ thế giới đang mặc kẹt ở stagnation suốt từ 1970, và cần phải đẩy nó phát triển trở lại, thông qua việc bắt cược vào các nhân tố distruptive (phá huỷ) như Donal Trump. Lần tranh cử thứ nhất của Trump mới chỉ có Thiel dồn tiền, còn lần vừa rồi là tất cả các tỷ phú công nghệ. Đây là chiến thắng của một chủ nghĩa nữa: Effective Accelerationism (Chủ nghĩa gia tốc hiệu dụng, hoặc chủ nghĩa vít ga hiệu dụng).
Chủ nghĩa này ghép chữ Effective (của Effective Altruism) và chữ Accelerationism của (Traditional accelerationism). Chủ nghĩa gia tốc, accelerationism, là của Nick Land sinh năm 1962 sáng tạo ra về mặt tư tưởng. Còn Effective accelerationism (trên internet viết tắt là e/acc, đọc là e ack) xuất hiện từ một account ẩn danh trên Twitter, về sau lộ diện là Guillaume Verdon-Akzam. Anh Verdon này là một nhà toán học, vật lý học và là nhân tố góp công cho Tensorflow Quantum của Google.
e/acc dựa vào thuyết nhiệt động học là thuyết khẳng định rằng entropy của vũ trụ luôn tăng, do đó sự sống (là cái làm tăng entropy) sẽ phải tìm cách lan toả khắp vũ trụ để tối đa hoá sử dụng năng lượng (chỗ này về mặt vật lý mình chưa hiểu lắm, vì nó sai). Verdon dựa vào Kardashev scale (шкала Кардашёва, 1964) là một thang đo cấp độ của các nền văn minh (trong đó có nền văn minh nhân loại, các cấp độ văn minh được đo dựa vào cấp độ tiến bộ công nghệ, tiến bộ công nghệ lại dựa vào mức độ tiêu thụ năng lượng. Các cấp độ của nền văn minh thì có một vài cách chia, dù cùnng dùng Kardashev scale. Ai đọc Michio Kaku thì đều quen với cách phân chia này. Verdun thì theo cách chia 3 cấp (type I, II, III).
e/acc được nhiều tỷ phú công nghệ công khai ủng hộ, và coi nó như một kiểu giáo phái. Trong đó có Marc Lowell Andreessen, là tỷ phú, sáng lập Netscape (giờ chắc chả ai nhớ, ngày xưa rất nổi), và là nhà đầu tư vào Facebook, Twitter. Ông này sáng lập quỹ đầu tư mạo hiểm Andreessen Horowitz, vận hành một khoản tiền khổng lồ lên tới 42 tỷ dollar, đầu tư vào rất nhiều start up. Bản tuyên ngôn Techno-Optimist Manifesto do Andreessen viết có lập trường và quan điểm hầu như dựa vào e/acc.
*
Như vậy ta thấy thật dễ hiểu khi “Cộng Đồng” nói chung và Silicon Valley nói riêng thu nạp cả những hệ tư tưởng mà tờ Financial Time gọi là Tân Phản động hay tờ New Yorker gọi là Phát xít Công nghệ. (Tân Phản động, Neo Reactionary còn có tên khác là Science Fascism: chủ nghĩa phát xít khoa học.)
Bài trên Financial Time gọi phong trào Tân Phản động là Dark Enlightenment (Khai sáng của Hắc ám). Còn trong tiếng Anh, Neo-Reactionary Movement được viết tắt là NRx.
Bài trên podcast của New Yorker cảnh báo “tại sao chủ nghĩa phát xít công nghệ (techno-fascism) đang bắt rễ ở Silicon Valley:
“Đã từ lâu bọn Silicon Valley đã cố gắng thay thế chính phủ, họ nghĩ rằng họ sẽ cai trị đất nước giỏi hơn cả cộng hoà lẫn dân chủ”.
Musk, Thiel,… tin rằng con người là động vật có trí khôn, mà trong đó họ là khôn nhất, có khả năng meta-thinking để nhận ra được cái mà họ đang sống bên trong là một system cai trị từ bên ngoài, nên họ sẽ chiến đấu để thuyết phục mọi người (với Marx là quần chúng lao động) hoặc tự mình (như Musk) lật đổ hệ thống ấy, thay nó bằng một… system khác tốt hơn.
*
Bertrand Russell có nói (chắc vậy, mà lười tra sách) rằng các triết thuyết thành công, chẳng qua là nhờ có ai đó đem áp dụng vào thực tiễn rồi người đó thành công và đi quảng bá lý thuyết như là cơ sở của hành động. Như Lenin dùng Marxism để thành công, rồi từ đó ai cũng biết đến Marx và triết thuyết đấu tranh giai cấp của ông này.
Các hệ tư tưởng nằm trong ý thức hệ Silicon Valley do Thiel, Musk và vô số tỷ phú triệu phú công nghệ khác đang thúc đẩy liệu có thành công không, ta chưa biết được, vẫn phải đợi. Nhưng họ đã thành công trong xoay chuyển chiều hướng chính trị Hoa Kỳ và từ đó gây ảnh hưởng đến thế giới. Tức là một cộng đồng công nghệ, triệu phú, thượng lưu ở quanh quannh Bay Area đã ảnh hưởng đến cả địa cầu. Cái này, về mặt nào đó, không thể coi thường được.
*
PS: Có rất nhiều nhà vật lý sau khi thành đạt bỗng quay qua nghiên cứu các vấn đề như nguồn gốc sự sống, nguồn gốc của ý thức, vân vân. Trong đó có Schrodinger, một trong những người sáng lập ra vật lý lượng tử. Và Penrose người tìm ra “điểm kỳ dị” của Black Hole.
Penrose diễn đạt lại ý gốc của Schrodinger về entropy và sự sống: sự sống luôn phải duy trì entropy thấp (cân bằng), nó nạp entropy thấp, và xả ra entropy cao. (Entropy là độ mất trật tự của một hệ, căn phòng ngăn nắp lúc đầu là entropy thấp, theo thời gian nó sẽ lộn xộn dần, tức là chuyển qua entropy cao). Cỏ cây hấp thụ entropy thấp, là photon từ mặt trời. Song rồi con bò nó nạp entropy thấp, là cỏ. Rồi người nạp entropy thấp là con bò (và xả ra heat, là entropy rất cao). Nên có vẻ như thuyết nhiệt động học áp dụng vào e/acc có gì đó sai sai. Mình cũng chưa thấy nhà vật lý lớn nào nói về việc này.
Sao Hoả, nói đúng là hành tinh Hoả, không có sự sống, một phần là nó không có khí quyển. Khí quyển, ngoài để thở, nó có vai trò ngăn thiên thạch lao xuống bề mặt trái đất, ngăn các tia vũ trụ có hại. Khí quyển có được là nhờ trọng trường trái đất đủ lớn để giữ lớp khí quyển bao quanh, và nhờ trái đất có từ trường, nó tạo ra một trường từ ôm lấy khí quyển không cho các tia vũ trụ xé toang lớp chăn khí quyển này khỏi trái đất. Sao Hoả không những có trọng trường yếu hơn trái đất (cỡ 38%) mà còn không có từ trường. Nên việc đưa người lên sao Hoả của Musk đang bị đánh dấu hỏi lớn về mặt khoa học.
Musk có một câu rất hay, phản ánh đúng kiểu ý thức hệ Silicon Valley: Đưa người vào vũ trụ không phải để cứu loài người như một giống loài, mà để cứu consciousness của loài người. (Đại khái vậy, mà lười tra câu gốc.)
June 30, 2025
Mắc kẹt kiểu Peter Thiel
Bài này có 5 bài nhỏ, mục lục như sau:
Start-up Mechanize và tham vọng tự động hoá tất cả các loại việc làm.Sam Altman nói về robot sẽ thay thế lao động phổ thông.Peter Zeihan nói về thay đổi nhân khẩu học dẫn tới thiếu hụt lao động và suy giảm số lượng người tiêu dùng sẽ tác động xấu đến kinh tế TQ trong 8 năm tới (có thể làm Trung Quốc suy sụp)Peter Thiel nói về việc các tỷ phú công nghệ tại sao phải dồn sức đẩy Trump lên.Tại sao cần nghiên cứu khoa học tự nhiên.Start-up Mechanize và tham vọng tự động hoá tất cả các loại việc làmNYT có bài viết về một start up tên là Mechanize và bài phỏng vấn một trong ba anh sáng lập cái công ty này. Mechanize đặt ra mục tiêu là automate tất cả các job trên đời trong vòng 30-40 năm nữa. Theo bài phỏng vấn thì anh founder tên là Matthew nói là các job đều cần các skill. Mà các skill thì có thể train con Ai làm được. (Vậy có thể hiểu công ty này cố gắng automation các công việc đòi hỏi kỹ năng, thức là thay thế người làm các việc này bằng máy, chứ không thay được chuyên môn). Công ty Mechanize nhận đầu tư từ nhiều tên tuổi trong làng công nghệ trong đó có founder của Stripe và của chief AI scientist của Google. Công ty chỉ có 5 nhân viên. Họ dùng reinforcement để train AI làm các job của giới cổ cồn trắng. Ví dụ họ đã làm được con Ai thay cho coder. Con Ai Coder này cũng được tạo tài khoản email, slack để làm việc nhóm với các coder khác. Cũng được giao việc, cũng có deadline, cũng phải phối hợp với team, rồi cũng có đánh giá.
Bài trên NYT có nhắc đến việc full automation như thế này không phải là ý tưởng mới, mà Keynes đã dự báo từ những năm 1930. “The dream of full automation isn’t new. John Maynard Keynes, the economist, predicted in the 1930s that machines would automate nearly all jobs, creating material abundance and leaving people free to pursue their passions.”
Sam Altman nói về robot sẽ thay thế lao động phổ thông.Sam Altman có bài nói chuyện ở AI Start Up School (Y Combinator). Trong talk thì nói nhiều thứ, kể cả việc Musk đã mean thế nào khi ở OpenAI. Có một ý Altman nói rằng Mỹ không mang được nền kinh tế sản xuất quay về (vì thiếu lao động phổ thông), nhưng 10 năm nữa Mỹ sẽ làm được robot hình người (humanoid) và chạy bằng AI. Các robot này sẽ là lực lượng lao động lái xe lái tàu bốc vác. (Link youtube ở comment).
Peter Zeihan nói về thay đổi nhân khẩu học dẫn tới thiếu hụt lao động và suy giảm số lượng người tiêu dùng sẽ tác động xấu đến kinh tế TQ trong 8 năm tới (có thể làm Trung Quốc suy sụp)Sam Altman nói là vài chục năm tới robot (dạng người, humanoid) cài AI sẽ là lực lượng lao động phổ thông cho nền kinh tế Hoa Kỳ. Còn các start-up kiểu Mechanize thì cố gắng tạo ra các nhân sự Ai có kỹ năng để làm việc thay giới lao động cổ cồn trắn (coder, kế toán, nhân sự vân vân.) (Hiện nhân sự ở các big tech cũng dùng AI rất nhiều rồi).
Nhưng Peter Zeihan lại nói hơi khác. Ở VN thì Jared Diamond, và gần đây là Tim Marshall được dịch nhiều và bán rất chạy. (Ở giữa hai ông này còn có Thomas Friedman). Peter Zeihan cũng là một nhà địa chính trị có tiếng tăm, từng làm cho Stratfor, và là tác giả sách bán rất chạy. Mình vừa gúc thử thì chưa có bản tiếng Việt nào. Cuốn “The End of the World is Just the Beginning” thì có thấy 1 cái bìa của Nhã Nam, nhưng có vẻ như sách chưa xuất bản (hoặc có thể ko xin được giấy phép). Cuốn này cũng là best-seller của Zeihan. (Bìa của Nhã Nam đã dịch tên ra tiếng Việt.)
Gần đây Zeihan có nói vài thứ. Lý thuyết lõi của anh này chủ yếu dựa vào năng lượng, các thuyết kinh tế, nhân khẩu học và địa lý. (Hơi khác Tim Marshall, gần như đặt vấn đề địa lý lên đầu và diễn giải mọi sự theo địa lý.)
Ví dụ Zeihan nói vài điểm như sau như một cái framework lớn làm cơ sở cho các lý luận của mình.
+ Các kiểu ism (phát xít, tư bản, cộng sản, xã hội chủ nghĩa kiểu bắc Âu…) đều vẫn ở bên trong một model cũ và giống nhau: quan hệ giữa vốn, lao động, quan hệ cung và cầu. Thế giới cần tìm ra model mới (vì nhiều lý do, trong đó có lý do nhân khẩu học và công nghệ.)
+ Sau chiến tranh lạnh (tường Berlin sụp), nước Mỹ khá là loay hoay về chiến lược.
+ Toàn cầu hoá đi lên đỉnh cao vào năm 2019. Thế hệ boomer làm nên lực lượng lao động chính và sáng tạo chính, tiêu dùng chính, đã tàn.
+ Hiện có nhiều thế lực có thể đe doạ vị thế quân sự của Mỹ (chắc ý nói là khác so với thời kỳ khối cộng sản sụp đổ, nước Mỹ là vô địch và dẫn dắt trật tự thế giới), nhưng sẽ không có nước nào áp đặt nổi một trật tự thế giới mới. (Tức là trật tự thế giới vẫn cũ, dù có thay đổi, do chính sách của Hoa Kỳ).
Về nhân khẩu học, Zeihan cho rằng nước Mỹ đô thị hoá và công nghiệp hoá rất chậm, trải dài qua năm thế hệ, nên Mỹ không bị già hoá, không bị tỷ lệ sinh thấp. Nên lực lượng lao động trẻ vẫn dồi dào, lực lượng tiêu thụ hàng hoá vẫn đông. Việc này tiếp tục tồn tại hàng chục năm nữa. Tiếp đó, do chính sách nhập cư cởi mở, nên Mỹ nhập khẩu rất nhiều IQ của thế giới, đồng thời nhập khẩu cả lực lượng lao động. Mỹ, Canada, Mexico có đủ lực lượng lao động cho nhiều thập niên tới, tương tự là thị trường đủ lớn để kinh tế phát triển. Riêng Mexico thôi, đã có đủ lao động sản xuất mà chất lượng (hiệu suất) ngang lao động Tàu, mà chi phí chỉ bằng 1/3 (do Tàu trót đầu tư nhiều vào công xưởng).
Việt Nam cũng được nhắc đến với lập luận cho rằng lao động VN đã có thể (bắt đầu cạnh tranh với lao động TQ).
Trong lúc đó Ý, Đức, Hàn, Nhật đều bị già hoá. Còn TQ thì họ công nghiệp hoá và đô thị hoá cực nhanh, trong có 1 thế hệ. Nên họ bị già hoá và tỷ lệ sinh thấp. Ở TQ ở thời điểm hiện tại thì số lượng người trên 54 tuổi đã đông hơn số người dưới 53 tuổi. (Ngưỡng tuổi tiêu dùng khoẻ, lao động hiệu suất là 45.) Tức là lực lượng lao động và lực lượng tiêu dùng sẽ liên tục giảm trong 10 năm tới, và TQ sẽ rất đau đầu. Hiện cũng đã đau đầu rồi vì hàng hoá mà TQ làm ra chủ yếu là để xuất khẩu, chỉ mạnh ở khâu lắp ráp và sản xuất phần cuối của chuỗi giá trị. Saving tư nhân của Tàu nằm phần lớn ở BĐS. Zeihan dự đoán Tàu collapse trong 8 năm tới (nếu không có gì thay đổi).
Do toàn cầu hoá và ngoại thương nên các chuỗi cung ứng rất xít xao. Nếu có sự cố, lập tức các nước như TQ hay New Zealand sẽ toạch về vấn đề lương thực, ví dụ nông nghiệp có thể thay đổi để trồng cây nuôi dân, nhưng chuỗi cung ứng để sản xuất phân bón sẽ toạch (vì ko có nguyên liệu để tạo ra phân bón, ko có phân bón thì sản lượng lương thực sẽ ko đủ đáp ứng). Mà chuỗi cung ứng rất dễ đổ vỡ nếu như Mỹ và phương Tây ko giữ được an ninh hàng hải. Chỉ cần buông lơi 1 phát là sẽ có các bọn hoạt động kiểu cướp biển, ví dụ như Houthi, làm gián đoạn vận tải biển.
Trong vài chục năm tới, về mặt lao động và tiêu dùng thì Mỹ có lợi thế hơn hẳn TQ. Chiến lược dùng robot để thay thế con người là rất khó vì robot cơ khí mà vận hành tinh xảo được là rất khó làm (Altman bảo làm được, nhưng chỗ này mình đồng ý với Zeihan vì ai đã từng ngồi làm việc với các motor bước và lập trình điều khiển sẽ thấy cái này rất khó về kỹ thuật). Zeihan cũng cho rằng kể cả có robot thì ở mảng dịch vụ vẫn cần lao động là con người, ví dụ bác sĩ phẫu thuật.
(Lúc có cái talk này thì Trump chưa cho B-2 ném bom Iran. Việc B-2 ném bom Iran cho thấy một cuộc chiến kỳ lạ, Mỹ đánh Iran ở rất xa, cách hơn 11 ngàn km. Israel đánh Iran cũng rất xa, khoảng 2 ngàn km. Hoàn toàn không dùng bộ binh. Iran là con hổ dữ ở Trung Đông mà ai cũng sợ, hoá ra chả có năng lực phòng không, không quân và tình báo gì cả.)
Peter Thiel nói về việc các tỷ phú công nghệ tại sao phải dồn sức đẩy Trump lên.Trên NYT có một bài (podcast, mục Opinion) phỏng vấn Peter Thiel, tên bài là “Peter Thiel and the AntiChrist”.
Một nhà tư tưởng cánh hữu công nghệ, gần như cực hữu, lên một tờ báo thiên tả để tuyên truyền là một sự kiện đáng đọc, dù tít bài là giật lên câu khách (chứ phần nói về AntiChrist không nhiều) và các idea hay message mà Thiel nói trong bài này cũng không có nhiều điều mới mẻ (ngoài chuyện Musk tỉnh ngộ và quay qua ủng hộ Trump.)
Ngoài ra, do format của cái talk này trên podcast cộng cái lão host rất lòng vòng và nói chuyện vuốt đuôi, đặt câu hỏi dẫn dắt mà lại nâng bi, nên đề tài rất lan man, không quá cụ thể vào cái gì để mà có thể tóm tắt lại.
Nhưng đại khái nội dung như dưới đây:
Với giới trẻ ở Mỹ, với những người theo chủ nghĩa phóng khoáng (liberalism), với những người hoạt động thiên tả thì Thiel là hiện thân của super villain ngoài đời thực. Giàu có, gian ác, kiểu kiểu vậy. Tất nhiên với những người xã hội chủ nghĩa thì Thiel chắc chắn là kẻ thù kinh tởm nhất.
Ở phía ngược lại, Thiel là tỷ phú, là nhà tư tưởng có ảnh hưởng nhất ở thung lũng Silicon, là nhà đầu tư tay to và rất thành công vào các công ty công nghệ. Rất nhiều doanh nhân công nghệ lớn phải nghe lời, thậm chí tuân phục Thiel, cụ thể là Elon Musk và Mark Zuckerberg.
Thiel sớm đặt cược vào Trump, khi không ai nghĩ Trump thành tổng thống, và sau đó Trump đắc cử lần một.
Một trong những nhân vật được Trump đặt cược lần đấy, là Vance, nay là phó của Trump 2.0.
Lần chạy đua tổng thống lần hai của Trump, các tỷ phú công nghệ ở Silicon Valley ùa theo Thiel, ủng hộ Trump. Mạnh mẽ nhất là Elon Musk. A dua có nhiều, trong đó có Mark Zuckerberg mà Thiel bảo không phải là kẻ có ý thức hệ (như Musk), cũng chẳng suy nghĩ thấu đáo gì về sự việc này (việc ủng hộ Trump như thực hành một lý tưởng).
Là bộ óc của giới công nghệ thiên hữu, nhưng Thiel là gay, và những gì anh ấy nói rất đậm chất kỹ thuật lý luận của phát triển biện chứng (dialetcic development) và nhiều màu sắc duy vật lịch sử của Marx.
*
“Lịch sử” trong hệ phái Hegel, là sự đấu tranh vật lộn lẫn nhau của các ý thức hệ, đến một ngày nào đó sẽ có một ý thức hệ chiến thắng hoàn toàn, lúc đó sẽ là kết thúc của lịch sử (end of history).
Hệ phái Marx thì lịch sử là đấu tranh của các giai cấp và các lực kinh tế, cuối cùng thì giai cấp công nhân sẽ thắng, nhà nước tiêu tan, thế giới chuyển thành của nghĩa cộng sản, end of history.
Cả hai thuyết đều thuộc dòng cứu cánh (teleology), tức là lịch sử vận hành để đi đến một cái đích có sẵn (purpose-driven). Cứu cánh luận thường là các thuyết liên quan đến thần học, trong đó mục đích cuối cùng (cứu cánh) là Chúa sẽ quay lại và giải thoát loài người. (Tin Lành vì vậy có hệ phái tên là Adventist (nghĩa là sự đến, ý nói là Chúa Ki Tô/ Cơ Đốc sẽ quay lại lần nữa), tiếng Việt là Cơ Đốc Phục Lâm (Lâm là đến, như lâm trận.)
Trung Quốc (Vương Hộ Ninh) và Việt Nam hiện tại là theo hệ phái political realism (Machiavelli, Hobbes). Tức là hệ phái Hegel và Marx đều có cái đích cuối cùng của lịch sử, hình thức cuối cùng của nhà nước, là liberal democracy và communism. Còn realism thì luôn luôn là đấu tranh và cân bằng quyền lực giữa các nhà nước, không bao giờ có đích cuối cùng. Không rõ về mặt tư tưởng, Thiel ra sức chống nhà nước socialist, nhưng muốn hướng đến cái gì?
*
Lý thuyết của Thiel đại khái dựa trên hình thức lý luận duy lịch sử và biện chứng như vậy. Anh này nhìn vào hai cái. Một cái là thời điểm, từ Francis Bacon. Một cái là quá trình phát triển của technology suốt gần 300 năm qua.
Theo Thiel thì từ 1750 đến 1970 công nghệ phát triển rất nhanh. Từ 1970 đến nay thì chậm lại rất nhiều, dù có AI, có drone, nhưng vẫn là rất chậm. Ví dụ như cho đến trước 1970, tốc độ di chuyển của con người, từ đi xe ngựa, đi tàu hoá, đi xe hơi, đi máy bay là một quá trình tăng lên rất nhanh. Bản thân tốc độ tàu thuyền xe hơi máy bay cũng tăng nhanh so với chính nó. Khoa học công nghệ có những bước tiến lớn về năng lượng nguyên tử, chinh phục không gian. Nhưng sau 1970, mấy chục năm gần đây, thì gần như không tăng gì. Cái này gọi là stagnation về công nghệ. So với vài thế hệ trước đây, đầu tư vào khoa học và học thuật phải tăng lên rất nhiều để có “lãi” ngang với ngày xưa.
Tất cả mọi thứ, từ chính phủ, định chế, xã hội đều mặc định là phải tăng trưởng, nguồn lực dồn vào càng nhiều, phải vay, phải đánh thuế, thuề ngày càng cao, đến một lúc nào đó socialism của Mỹ (Obama, Biden) sẽ sụp đổ vì thuế. Các thế hệ cũ luôn expect thế hệ sau sẽ giàu có tiến bộ hơn, việc này sẽ dần dừng lại. Đến một lúc đạt ngưỡng, mọi thứ sẽ dừng lại, nhưng xã hội đã quá giàu để take risk và vọt qua hệ hình mới, nên nó sẽ mắc kẹt ở đấy.
Vì quá lo lắng cho an toàn, ko dám mạo hiểm, chính phủ và các định chế lại đặt ra thêm nhiều rào cản để loại bỏ rủi ro. Thiel đưa ra một ví dụ là quản lý dược phẩm quá chặt, nên mất mấy chục năm và tốn rất nhiều tiền, ngành y và dược vẫn không tìm ra cách chữa dementia và alzheimer. Tức là tốc độ tiến bộ của công nghệ rất chậm. Giờ phải nới lỏng, cho thử nghiệm dễ hơn, ví dụ vậy, sẽ có hàng núi tiền đổ vào tìm cách chữa hai loại bệnh này, và khả năng thành công sẽ cao hơn.
Thiel đặt cược vào Trump năm 2016 vì Trump chính là nhân tố rủi ro, nó sẽ tạo ra disruption. Xã hội cần rủi ro, cần disruption, Trump chính là cái đó. (Tư duy này rất là venture capitalist, nhưng lại áp vào chính trị xã hội.)
Về AntiChrist. Thiel cho rằng từ Francis Bacon, con người bắt đầu nghĩ rằng khoa học và kỹ thuật sẽ giúp con người giống hơn với thần thánh (trẻ lâu hơn, sống lâu hơn, khoẻ hơn và có thể sẽ bất tử nhờ tiến bộ khoa học). (Bacon là người làm thay đổi triết học khoa học tự nhiên nhờ vào việc đặt ra và cổ suý phép quy nạp, xây dựng chủ nghĩa Duy nghiệm – Empiricism, và từ đó loài người có khoa học tự nhiên như hiện nay. Ngoài ra ông còn nhiều đóng góp quan trọng nữa cho loài người.) Những người đặt lòng tin vào khoa học công nghệ theo kiểu Bacon, tăng dần theo thời gian, họ rời xa Thiên Chúa, có niềm tin rằng một ngày nào đó, với công nghệ nào đó (kiểu đông lạnh cơ thể, ngủ đông) sẽ giúp họ sống lâu thêm rất nhiều (gần như là bất tử). Trong những người ấy, sẽ có kẻ ác, dùng công nghệ để khống chế loài người, giống như Dr. Strangelove trong phim (dưa theo nguyên mẫu là cha đẻ bom khinh khí Edward Teller, vai phản diện trong phim Oppenheimer của Nolan).
*
Quay lại với công nghệ. Loài người tiến bộ, công nghệ phát triển. Sự đi lên của công nghệ và loài người cần phải có phí tổn, đó chính là tài nguyên, năng lượng, và môi trường. Không muốn ô nhiễm, không muốn sử dụng năng lượng (hoá thạch) thì phải ngừng phát triển. Khi ngừng phát triển, hoặc chỉ làm chậm tốc độ phát triển lại thì sẽ nảy sinh ra vấn đề là các thế hệ sau không thành công, không ăn nên làm ra như các thế hệ trước, xã hội sẽ mất dynamic và chuyển thành static, tức là sẽ quay về với xã hội feudal (feudal là phong kiến, nhưng khác với phong kiến Tàu, hoặc VN). Thế giới lúc đó sẽ bị bọn environmentalist chi phối. Đó chính là bọn ác của thời nay, khác với bọn ác nhân kiểu Bacon. Mà symbol của bọn ác nhân ấy chính là Greta Thunberg.
[Mình có một anh người quen, Do Thái lai Hoa ở NY, anh này học Harvard xong về TQ đi làm, tình cờ lấy cháu ngoại của nguyên soái DKA. Anh này làm tư vấn, viết báo, viết sách. Anh ấy có một nhận xét thế này, khi TQ mở cửa, có rất nhiều người ở tầng lớp dưới, kiếm ăn được, leo lên được tầng trung lưu, xong họ có ảo tưởng là leo tiếp thì sẽ lên được thượng lưu (tất nhiên có mà leo bằng mắt, có tiền để vào được thượng lưu, thì phải giàu mấy đời liên tục). Rồi kinh tế Tàu bị stagnation, lúc đầu thì giới trẻ nhận ra là mình có đi làm thế nào cũng không thể mua được nhà. Rồi đến gần đây thì họ nhận ra là toàn bộ thế hệ trẻ hiện nay không thể thành công bằng thế hệ bố mẹ họ (không mua được nhà, không an toàn về tài chính, không nuôi được con vào đại học, không có địa vị (dù là bé) ở xã hội, cộng đồng, tập thể mình đang sống. Việt Nam cũng sắp sửa như thế. Nước Mỹ thì như Thiel nói, nếu bị thế, sẽ quay lại xã hội feudal.]
Quãng 2013, Thiel đã tranh luận rất nhiều với các tỷ phú công nghệ (Eric Schmidt, Marc Andreesen, Bezos) và họ đều không công nhận công nghệ đang bị stagnation. Mặc định ở Silicon Valley lúc đó là liberal, và cái gì không làm được thì bỏ thêm tiền, làm nhiều thêm nữa, sẽ được. Hàng núi tiền bỏ vào, càng ngày woke càng thắng thế, và đến lúc tất cả mọi người (dân Mỹ bình dân lao động) chuyển sang căm ghét họ. Sau 2016 (Trump đắc cử, rồi lại Biden), thì đến 2024 tất cả tỷ phú công nghệ đều quay xe, đặt cửa vào Trump.
Theo Thiel, Musk tỉnh ngộ rất muộn, mãi đến 2024 khi gặp DeepMind là Demis Hassabis thì Musk mới tỉnh ra. Khi Musk bảo rằng dự án lên Sao Hoả của Musk mới là vĩ đại nhất chứ không phải AI của DeepMind thì anh kia nói: AI của tao sẽ theo mày lên Sao Hoả. Musk im lặng. Vì Musk hiểu rằng anh kia nói đúng, dù Musk có bỏ đi đâu nữa thì wokist, wokism có trong AI nó cũng bám theo như một loài virus. Để chống lại, cách duy nhất là chống wokist ngay ở thế giới loài người, ngay từ chính phủ Hoa Kỳ.
Lúc đó Thiel bảo Musk: Nếu Trump thua, tao sẽ rời đất nước này. Musk bảo: mày đi đâu, chẳng có chỗ nào cho mày đi cả.
Với Thiel, Trump chỉ là một nhân tố distruptive, phá huỷ cái cũ, để có cái mới. Tức là Trump mà lên chắc chắn sẽ phá huỷ cái gì đó cố hữu, để cái mới mọc ra. Thiel đánh cược vào việc nhân tố này sẽ thành tổng thống. Với Thiel, chủ nghĩa dân tuý populism cũng chỉ là công cụ, để nó làm lòi ra những cái fake. Tư duy này rất là kinh khủng, Thiel dùng tiền và ảnh hưởng của mình trong giới tỷ phú công nghệ để cổ suý cho những nhân tố đột biến, phá huỷ chính phủ xã hội chủ nghĩa của Biden (lúc đó vẫn đang là tổng thống), phá huỷ wokism ở Silicon Valley.
Khi được hỏi rằng populism không quan tâm khoa học, họ cắt hết chi phí nghiên cứu, ví dụ cho Harvard. Thiel bảo rằng không phải như vậy, cái cản trở tiến bộ khoa học chính là chính phủ. Ngày nay mà Einstein viết thư cho chính phủ yêu cầu mở dự án làm bom nguyên tử (dự án Manhhatan) thì thư của ông cũng vào thùng rác.
Tóm lại, những người như Thiel, Musk, họ không Pro-Trump (thậm chí không phải MAGA), cái họ kích động để Trump thắng cử, populism thắng thế, MAGA thành phong trào lớn là để làm đứt gãy và xoá bỏ chính quyền xã hội chủ nghĩa của Biden, loại bỏ wokism ra khỏi chính phủ, ra khỏi Silicon Valley, và ra khỏi xã hội Hoa Kỳ.
*
Về AI, Thiel nói rằng nếu so nó với vai trò của internet, thì nó mới tương đương với internet những năm 90. Trong tương lai nó có thể tạo ra vài đại công ty, đóng góp 1% vào GDP trong 10, 15 năm, năng hiệu suất lao động. Nhưng đấy chỉ là 1 chiều kích, còn cần nhiều chiều kích khác nữa cần có đột phá lớn tầm cỡ như dự án Apollo, kiểu như chữa bệnh nan y, chinh phục không gian, làm bom nguyên tử.
Nghiên cứu và giảng dạy khoa học tự nhiên, tại sao?Để trả lời câu hỏi này chúng ta có thể bắt đầu bằng một trường hợp cụ thể. Vài tháng trước có một nghị sĩ ra quốc hội đề xuất ý kiến không nên đốt vàng mã, thay vào đó là đốt thẻ tín dụng, cụ thể là thẻ Visa.
Đằng sau ý kiến xuất thần này là sự thiếu vắng hiểu biết khoa học. Ở cõi âm vẫn có lửa, bằng chứng là có lửa ở luyện ngục, thậm chí là lửa ma trơi. Nhưng sóng điện từ không thể tồn tại ở cõi âm. Vậy nên các thiết bị điện và điện tử đốt xuống dưới ấy là vô dụng. Đốt iphone chẳng hạn, xuống dưới nó thành cục gạch. Điện cũng không tồn tại. Giả sử có nạp sẵn game vào máy, mua pin vàng mã đã sạc, đốt xuống cũng không dùng để chơi game được. Các tia lửa điện không tồn tại ở cõi âm, bằng chứng là chưa có ai ở cõi âm chết vì sét đánh. Nên xe máy, ô tô chạy xăng đốt xuống cũng không chạy được vì bugi không thể đánh lửa để nổ máy.
Chúng ta biết rằng rất nhiều nhà khoa học phát minh ra những phát kiến lớn trong lúc nằm mơ. Đó là do các nhà khoa học ở cõi âm, họ ở chiều không gian khác nên họ nhìn xa nhìn sâu hơn được, báo mộng lên cõi dương.
Bọn Tàu từ lâu đã nhận ra là người da trắng không đốt vàng mã nên bọn da trắng chết đi, ở cõi âm rất nghèo. Trong khi bọn Tàu ở cõi âm rất giàu, chúng thuê các nhà khoa học da trắng cõi âm nghiên cứu, rồi báo mộng cho các nhà khoa học Tàu cõi dương. Vì thế các nhà khoa học Tàu chỉ cần đi Mỹ học cho tốt để biết tiếng Anh và có kiến thức nền tảng, xong đến phòng Lab ngủ để nhận báo mộng. Sau khi có công trình do báo mộng, chúng quay về nước Tàu phục vụ đế chế Tập Cận Bình.
VN chúng ta đi chậm hơn Tàu, lại dốt hơn, thay vì đốt đô la và vàng, thì toàn đốt iphone với xe hơi xuống. Người Việt cõi âm có khi còn nghèo hơn ma da trắng, vì đã chẳng có tiền lại còn phải ngồi ôm các cục gạch vô dụng. Trong lúc đó ở cõi dương các nhà khoa học VN không chịu ngủ, toàn thức để cày paper với đi dạy thêm, làm đề tài lăng nhăng để lấy kinh phí nhà nước. Rất là dại. Mà chung quy là thiếu khiến thức khoa học.
Để bước vào cuộc cách mạng lớn của dân tộc, đề nghị toàn dân chăm đốt đô la và vàng mã, ai có kiến thức phải tập trung vào ngủ ngày để nhận báo mộng. Đề nghị các nhà khoa học trẻ tập trung vào tri-săm, để mệt quá ngủ luôn, tranh thủ nhận tri-thức qua báo mộng.
May 28, 2025
Tại sao Việt Nam chưa có Vương Hộ Ninh
Tại sao Việt Nam chưa có Vương Hộ Ninh (hoặc chưa xuất hiện Vương Hộ Ninh)?
Câu hỏi này cũng giống như câu hỏi tại sao VN chưa có Messi với Ronaldo. Nhưng cũng có thể có một số khía cạnh cụ thể, nhất là khía cạnh cá nhân, giải thích được việc tại sao Việt Nam chưa có Vương Hộ Ninh.
1.
Đầu tiên là giới. Ở Tàu học giới của họ có một nhóm gọi là các “công cộng trí thức phần tử”. Tức là các nhà trí thức phục vụ mục đích công. Vương Hộ Ninh thuộc giới này. Việt Nam không có nhóm này. Sẽ giải thích thêm một chút ở dưới.
Vương Hộ Ninh là “phần tử trí thức công cộng”, nhưng xuất thân của ông ấy là một nhà khoa học chính trị. Rồi sau này ông trở thành một nhà triết học chính trị. Ở Việt Nam rất ít nhà khoa học chính trị thuộc khu vực công. (Nhà khoa học ở đây hiểu theo đúng nghĩa đen). Hoặc có thể là chưa có, không có một nhà khoa học chính trị thực sự nào đang ở khu vực công.
2.
Tất nhiên, Việt Nam không có một nhà triết học nào (nói chung) và không có một nhà triết học chính trị nào nói riêng. Đương đại lại càng không.
Trung Hoa thì triết học lại quá nhiều, các nhà triết học chính trị (dùng triết học như một lý thuyết để trị quốc) cũng có những nhân vật tầm cỡ thế giới. Có thể kể đến Hàn Phi (rất nổi tiếng ở VN), hoặc Đổng Trọng Thư (kém nổi tiếng hơn) nhưng lý thuyết trị quốc và kiểm soát xã hội của ông ấy còn tồn tại đến tận ngày nay ở VN. Cả hai ông này đều cách xa chúng ta cả 2000 năm.
Thế kỷ XX ở TQ cũng có những triết gia và triết thuyết lớn. Ví dụ Tân Sự luận (một triết thuyết nhằm cải cách TQ thời hậu Thanh) có hai ý tưởng quan trọng là “Cộng tướng” và “Thù tướng”. Cộng-tướng là dung nạp các dị biệt. Nó rất giống với thể chế dung nạp mới được giải Nobel gần đây (nhưng ra đời sớm hơn cũng nên). Thù-tướng là coi trọng cái riêng, phát huy cái đặc sắc.
Cộng tướng là nền tảng lý thuyết “Ba Đại Diện” mà Vương Hộ Ninh đưa cho Giang Trạch Dân.
Thù tướng là nền tảng của các thuyết “Trung Hoa Mộng”, Chủ nghĩa xã hội Đặc sắc TQ” và “Tân kỷ nguyên” mà Vương Hộ Ninh đưa cho Tập Cận Bình.
3.
Khi mà đất nước Trung Hoa rơi vào vực xoáy Văn Cách, mà Tập là con nhà lãnh đạo đỏ còn phải về quê, thì Vương Hộ Ninh vẫn được học đại học, khoa tiếng Pháp.
Chủ đề nghiên cứu của Vương là chủ quyền (sovereignty). Ta có thể đoán là ở cỡ tuổi đấy, ở chế độ chuyên chính vô sản Maoist đấy, học tiếng Pháp, hẳn sẽ đọc gì. Câu trả lời rất dễ: Hobbles. Và có thể đoán thêm: Machiavelli.
Với Vương thì chủ quyền phải do nhà nước nắm. Nhà nước ấy phải là một nhà nước chuyên chính. Dần dà theo thời gian, chủ quyền được hiểu rộng ra không chỉ là chủ quyền lãnh thổ (mà nay còn thiếu Đài Loan) mà còn là chủ quyền văn hoá, chủ quyền kinh tế, chủ quyền thương mại, chủ quyền trên không gian mạng (đây là khái niệm được thực thi sớm nhất nên các công ty internet Mỹ phải đứng ngoài TQ)…
Các chủ quyền ấy phải ở tầm vóc và bối cảnh toàn cầu. Tất cả các khái niệm lớn về chủ quyền ấy, phải nằm trong tay một nhà nước chuyên chính, đúng hơn là nằm trong một nhóm quyền lực tập trung (centralized) và dần dần nằm trong tay một cá nhân thống nhất mọi quyền lực (united). Tất nhiên một nhân vật “nhất thống thiên hạ” ấy phải là TBT, nhất là vị TBT mà Vương Hộ Ninh đang phục vụ. (Lãnh đạo hạt nhân.)
Đến đây ta thấy dấu ấn của Machiavelli và Trần Vân trong thuyết trị nước của Vương Hộ Ninh. Machiavelli là người Vương hâm mộ, vì nước Tàu rất cần một quân vương và quân vương ấy sử dụng chủ thuyết kiểu Machiavelli:
+ trước là không để đất nước cát cứ, phân rã và tan vỡ thành nhiều nước. Việt Nam là trường hợp rất hiếm hoi ly khai khỏi Tàu sau 1000 năm bị kiểm soát. Và hiện vẫn là mẫu hình cho anh em Hồng Công, Tây Tạng vân vân.
+ sau là một quân vương nhất thống thiên hạ trên tất cả các loại chủ quyền ở bình diện quốc tế.
Nhưng thực ra hiện nay TQ vẫn chưa làm được ở chủ quyền luật pháp quốc tế, chủ quyền đồng tiền quốc tế, chủ quyền hộ chiếu quốc tế, tức là vẫn thua xa Mỹ, thậm chí chưa có cả chủ quyền công nghệ lõi, vẫn bị phụ thuộc. Mặc dù Vương Hộ Ninh phê phán nền dân trị Mỹ trong trước tác kinh điển của ông “Mỹ quốc phản đối Mỹ quốc”, nhưng Mỹ tự nó cũng tiến hoá rất dị, nên những gì Vương nhìn nhận (điểm yếu) của dân chủ Mỹ có thể cũng đã lỗi thời.
5.
Khi viết luận văn “Chủ quyền nhà nước” và trước tác “Mỹ quốc phản đối Mỹ quốc” thì Vương Hộ Ninh đã xác định cho mình một trường phái, đó là Tân Chuyên chính. Chuyên chính vô sản của Mác Lê Mao vốn rất thành công ở Liên Xô, Đông Âu, Việt Nam và Trung Quốc, nhưng đến lúc Vương Hộ Ninh bước vào đại học thì nó đã, với tư duy của Vương, có vấn đề.
Trung Quốc tiếp cận triết học cổ Trung Quốc rất đa dạng. Cách thô sơ nhất là “tín cổ” rất quen thuộc ở VN. Tức là các vĩ nhân cổ xưa nói không có bao giờ sai. Mác Lê bác Hồ nói gì cũng là chân lý. Nhưng họ có một cách khác tiến bộ hơn, là “thích cổ”, tức là nỗ lực giải thích các triết thuyết cũ, bất chấp nó đã thành công thế nào, để xem nó đúng sai ở đâu, và nay áp dụng được gì.
Là một nhà khoa học chính trị, lại là một giáo sư quan hệ quốc tế, tầm vóc và tư tưởng của Vương Hỗ Ninh đã đạt đến tầm một nhà triết học chính trị hiện đại, đem lý thuyết của mình áp luôn vào ba đời tổng bí thư liên tiếp. Rất may cho ông Vương này, tổng bí thư thứ ba mà ông phục vụ, là bậc quân vương đúng trong mơ của ông, mạnh mẽ, lạnh lẽo, đáng sợ và thu được quyền lực khắp nơi về một mối. Ba năm trước, sau Đại hội 20 của ĐCS TQ, Vương Hỗ Ninh tung ra “hai xác lập” “bốn ý thức” xoay quanh vị trí hạt nhân và tư tưởng của quân vương Tập Cận Bình.
6.
Nhưng con đường từ một giáo sư quan hệ quốc tế ở Phúc Đán, trở thành một nhà khoa học chính trị kiêm “công cộng trí thức phần tử”, đòi hỏi một sự dũng cảm. Ở VN các trí thức dũng cảm thường sẽ làm một hành động dũng cảm: phản biện xã hội, phản biện chính sách, hoặc phê phán vài lãnh đạo. Dũng cảm của Vương Hộ Ninh khác hẳn, ông này dũng cảm làm ngược lại các trí thức VN hehe. Ông ta nhìn vào thất bại của chủ nghĩa chuyên chính vô sản, dũng cảm bảo vệ nó, cải cách nó, dẫn dắt nó, cài cắm nó. Toàn những việc ủng hộ “cái ác”. Tức là cực kỳ dũng cảm để thành một triết gia Machiavellian.
Mà thật bất ngờ, Machiavelli bị coi là người xấu, tên của ông thành tính từ chỉ sự độc ác nham hiểm, còn Vương Hộ Ninh thì lại được tò mò tìm hiểu, và hâm mộ.
Dũng cảm không chưa đủ. Ông còn phải may mắn lấy một người vợ thuộc loại trâm anh thế phiệt đỏ, để từ Thượng Hải đánh tiếng được tới Trung Nam Hải. Khi vào được Trung Nam Hải, ông lại may mắn bỏ được bà vợ bậc thang này, lấy một cô sinh viên trẻ hơn, để nạp thêm năng lượng và tri thức chuyên ngành (quan hệ quốc tế, vì cô này dạy ngành này ở Phúc Đán). Rồi khi công thành danh toại, ông lấy người vợ thứ ba, rất trẻ rất đẹp, xuất thân ở tổ phục vụ lãnh đạo cao cấp.
Ở đẳng cấp chính trị và địa vị xã hội rất cao, ông đâm ra chả cần trâm anh thế phiệt hay học vấn làm gì. Cứ trẻ và ngoan có lẽ là hai tiêu chí tốt nhất. Đó cũng là triết lý quan trọng nhất của một đời người đàn ông, dù ông ta có là nhà triết học chính trị thành công nhất lịch sử TQ.
PS. Hôm nay ông Việt gửi tặng một cái MacBook Pro. Thế là sau 1 năm không có máy laptop để viết, toàn dùng bàn phím bluetooth (rất xịn, do Hiếu tặng) để nối vào iPad Mini viết bài, nay lại có máy tính. Nhưng thực ra cũng chẳng khác gì. Vì ở câu lạc bộ Sống Gấp, chúng tôi cần cái khác hehe.
May 3, 2025
Sài Gòn Tua Nhanh: Baigaur, Prey Nokor, Kampong Krabei, Saigon

Năm 946, đế quốc Angkor của người Khmer phát động cuộc chinh phạt đầu tiên qua đất vương quốc Champa. Vua Khmer khi đó là Rajendravarman II và quân đội của mình đi từ Angkor xuôi dòng Mekong ra cửa biển rồi đánh ngược lên thủ đô của nước Chàm (nay là Nha Trang).
Năm 1080, quân đội Khmer tấn công Champa một lần nữa, lần này họ đánh vào Bắc Champa, nơi có thủ đô là Vijaya (Bình Định). Quân Chàm lần này không chỉ phản công, đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi bờ cõi, mà còn truy kích kẻ thù qua đất của Khmer là vùng Biên Hoà ngày nay rồi từ đó đi theo đường thuỷ ngược sông Mekong lên tận thành phố cổ Sambor (cách Angkor Wat khoảng gần 200 km).
Trong chiến dịch từ phản công chuyển qua chinh phạt này, người Chàm chiếm một khu định cư nhỏ ở gần cửa sông và ở lại. Nơi đây có một ngôi đền cổ thờ thần rắn của vương quốc cổ Phù Nam. Vị trí này ngày nay là chùa Phụng Sơn đường 3/2.
Khu định cư này của người Chàm được gọi là làng chài Baigaur.
Vùng đất xưa là Phù Nam, lúc này là Chân Lạp, vốn chỉ có dân Phù Nam, dân Khmer, nay có thêm dân Chàm sinh sống.
*
Champa là liên hiệp các tiểu quốc Chàm và một loạt các tiểu quốc chư hầu, phần duyên hải kéo dài từ Quảng Bình đến Biên Hòa, phần cao nguyên bao gồm Tây Nguyên hiện nay kéo sang Nam Lào (bao gồm các lãnh thổ của các tộc Hroi, Jrai, Ma, Stieng, Rhade, Churu, Raglai, Bahnar, Sedang). Có năm tiểu quốc Champa: Indrapura (Đồng Dương), Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Bình Định), Kauthara (Phú Yên-Khánh Hòa), và Panduranga (Ninh Thuận- Bình Thuận).
*
Đến năm 1145, vua Angkor (Chân Lạp) là Suryavarman II, tổ chức một đạo quân lớn xâm lược Champa. Lần này họ chiếm thủ đô Vijaya (Nam Chiêm Thành, nay là Bình Định), phá hủy Mỹ Sơn. Suryavarman II xưng mình hoàng đế Chân Lạp lẫn Champa. Đây là bước chuyển biến lớn của đế quốc Khmer: từ vương quốc Chân Lạp, họ thôn tính Phù Nam, và bây giờ chiếm nốt Champa. Suốt bốn năm chiếm đóng, đế quốc Khmer xâm chiếm một dải đất lớn từ Nam Lào (nay là Champasak) sang vùng đất duyên hải của Champa lên đến tận đèo Hải Vân.
Trong quãng thời gian này, người Khmer chiếm lại làng chài Baigaur và đổi tên thành Prey Nokor.
*
Năm 1177 là năm bước ngoặt, vua Chàm là Jaya Indravarman IV dẫn một đạo lớn tấn công Đế chế Khmer. Họ đi đường biển, vượt qua biên giới Chàm-Khmer, vào vùng duyên hải Khmer (nay là Vũng Tàu), vào cửa sông (Cần Giờ) rồi ngược lên chiếm lại làng chài Prey Nokor. Từ đây họ đi ngược dòng Mekong rồi bất ngờ đánh vào Tole Sap. Quân Khmer thua trận thuỷ chiến rất lớn này, để Angkor Wat rơi vào tay quân Chàm, bị cướp bóc tàn phá, từ đấy đi vào suy tàn.
Vùng đất sát cửa biển (Cần Giờ) vốn chỉ có người Phù Nam, Khmer, nay có thêm dân Chàm và tù binh Khmer mang từ Angkor về sinh sống.
*
Sau các cuộc chiến đẫm máu với Khmer, người Chàm bắt đầu tấn công mang tính cướp bóc lên vùng đất phía bắc Quảng Bình, một vùng đất thuộc Hán. Khi vùng đất này giành được độc lập, trở nên giàu có và mạnh mẽ, họ tấn công ngược lại vương quốc Chàm. Chiến dịch “bình Chiêm” đầu tiên của họ do Lê Hoàn dẫn dắt.
Chiến tranh Đại Việt-Champa kết thúc(1471), vua Lê Thánh Tông xâm chiếm hoàn toàn khu vực Vijaya.
Champa suy tàn và thu dần vào các lãnh địa cô lập: Aia Ru – Hoa Anh của người Rhade (kéo dài theo chiều ngang từ Tây Nguyên, đèo Cù Mông xuống Đá bia (Thạch Bi Sơn, nay thuộc Phú Yên), tiểu quốc Kauthara (Aia Terang-Nha Trang), tiểu quốc Chàm Panduranga (Ninh Thuận – Bình Thuận) tiểu quốc Nam Bàn (tiểu quốc Jarai) của các dân tộc cao nguyên (nay là Tây Nguyên) như Rhade, Jarai, Stieng, M’nong, Bahnar, K’ho, Lat Sre, Chil…
Sau đó, suốt một thời gian dài người Chàm, các dân tộc Thượng (cao nguyên) và người Việt sống tương đối chan hoà với nhau. Ngôn ngữ chung (lingua franca) lúc đó là ngôn ngữ Malay vốn được sử dụng chung ở các cù lao Đông Nam Á. Người Việt giao lưu và lấn dần xuống phía Nam, người Chàm lui dần. Các nhóm nhỏ Chàm hoà nhập dần vào cộng đồng Việt, cùng làm ăn, cùng tham gia quân đội.
*
Chúa Nguyễn dần mở cõi vào Nam. Năm 1611 chiếm Phú Yên, lập dinh Phú Yên. Năm 1693 chiếm Bình Thuận, lập dinh Bình Thuận. Thế là đất Chàm duyên hải về tay chúa Nguyễn. Đây là cả một quá trình bành trướng bền bỉ và lâu dài.
Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng đưa một đạo quân đánh xuống đất Chàm ở Phú Yên. Dân Chàm lúc này suy yếu về kinh tế, chia rẽ vì tôn giáo, buộc phải lùi thêm xuống Nam, mắc kẹt giữa vương quốc Đàng Trong của chúa Nguyễn đang bành trướng và đất Khmer tồn tại sẵn từ lâu.
Các vua Chàm theo Muslim (mới mẻ và mạnh hơn) giết các vua Chàm theo Hinduism (cũ hơn), cai quản Kauthara (Nha Trang) rồi rút hẳn về Panduranga (Phan Rang) rồi Bal Canar (Phan Rí).
Một thủ lĩnh người Churu (gốc vùng đất ngày nay là Đơn Dương) trên cao nguyên đã tấn công và thần phục cả hai dân Chàm Muslim và Chàm Hinduism. Ông vua Chàm mới mẻ này có tên là Po Ramo, ông có ba bà vợ , một là công chúa Chàm, một là con thủ lĩnh Ede, và một là con chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Từ Phan Rí, suốt mấy chục năm trời ông vua này xây dựng nông nghiệp và thương mại Chàm phát triển, ổn định quan hệ Việt Chàm, cho đến khi chính ông bị thương rồi qua đời trong một vụ xung đột vũ trang Chàm Việt ở Phú Yên. Các vua Chàm sau đó cố gắng đánh ra bắc để chiếm lại Phú Yên, rồi lại bị quân đội của chúa Nguyễn (Phúc Tần) đánh cho chạy sát về Phan Rí, để mất Nha Trang.
Người Chàm vốn sống dựa vào làm nông và làm nghề biển, và thương mại bị mất các hải cảng lưu vực sông quan trọng, suy yếu dần cả về kinh tế và dân số. Một số lượng lớn Chàm Muslim đã làm một cuộc di dân khổng lồ theo đường bộ, họ đi theo chiều ngang, từ bờ biển Nha Trang, qua Tây Nguyên, tới Mekong, rồi định cư ở Ayutthia (Thái Lan).
Biên giới Chàm-Việt lúc này yên ổn ở Khánh Hoà, do Nha Trang hoàn toàn nằm dưới quyền quản lý của chúa Nguyễn.
Đây là quãng thời gian đặc biệt, khi người Việt bắt đầu sống chung, giao lưu với dân Khmer và Xiêm. Công nghệ trồng lúa của người Chàm được chuyển giao ra vùng đất mà chúa Nguyễn quản lý (sau là Bình Trị Thiên), đó là giống lúa Chiêm (Chiêm Nam Mùa Bắc).
*
Quãng thời gian này cũng rơi vào khoảng vài thế kỷ sau khi người Khmer bỏ thành phố Angkor để di chuyển dần xuôi xuống hạ lưu Mekong. Hoàng gia Khmer suy yếu, quân đội phải tuyển mộ lính đánh thuê từ cộng đồng các sắc tộc(Hoa, Nhật, Chàm, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha). Các phe phái trong cung đình đều phải dựa vào ngoại bang, hoặc là dựa vào Xiêm, hoặc dựa vào nhà Nguyễn ở Phú Xuân. Các chúa Nguyễn cũng sử dụng Hoa kiều ở Cambodia làm bàn đạp gây ảnh hưởng chính trị, kinh tế lên hoàng gia Khmer.
Năm 1618, vua Chei Chetta II lên ngôi vào lúc Cambodia chỉ còn là chư hầu của Xiêm, đồng thời chính Xiêm lại bị Burma đe doạ quân sự. Để chống lại sức ép của Xiêm, Chei Chetta II dựa vào chúa Nguyễn.
Chúa Nguyễn Phúc Nguyên gả Ngọc Vạn cho Chei Chetta II, gửi hàng ngàn binh lính theo Ngọc Vạn về nhà chồng. Suốt thời gian làm hoàng hậu, rồi thái hậu, Ngọc Vạn (dựa vào quân lực chúa Nguyễn gửi sang) vừa thao túng vừa cân bằng các nhóm quyền lực trong hoàng gia Khmer.
Năm 1623, Nguyễn Phúc Nguyên xin Chei Chetta II cho phép thu thuế ở Prei Nokor và Kampong Krabei. Hai làng chài này, kể từ lúc bên Trung Hoa là thời Tống, đã là điểm trung chuyển thương mại hàng hải giữa Trung Hoa, Nhật, các nước Nam Đảo với các nước thượng nguồn sông Mekong.
Hai làng chài nhỏ, nằm ở bìa rừng rậm, sát con rạch lớn, trở thành hai thị tứ ven sông, rồi dần nổi lên như hai tiểu đô thị thương mại sầm uất giữa một vùng đất kinh rạch và rừng rú, là cái hub đường sông tấp nập nối các tuyến thương mại từ biển vào sâu trong bán đảo Đông Dương.
Khi quyền năng của Nguyễn Phúc Ngọc Vạn suy yếu, chúa Nguyễn phải hai lần đưa quân qua chinh phạt Cambodia, vừa để ủng hộ phe hoàng gia thân Việt, vừa để duy trì hai đồn thuế Prei Nokor và Kampong Krabei đang hoạt động như hai cái máy in tiền cho chúa Nguyễn đồng thời duy trì vùng ảnh hưởng của người Việt lên khắp vùng đất này. Cuộc chinh phạt đầu tiên là năm 1658, lần tiếp theo là 1674.
*
Prei Nokor về địa bàn, thuộc khu Chợ Lớn bây giờ, về địa danh sau nó được gọi là Sài Gòn, rồi dần dà cái tên Sài Gòn được dùng để chỉ khu vực đô thị do Pháp xây dựng (nay là quận Nhất). Còn vùng đất gốc của Prei Nokor, được khoác cho một cái tên mới là Chợ Lớn.
Kampong Krabei, sau này là Bến Nghé. Do thành Gia Định thời Gia Long – Minh Mạng xây ở đây nên nó còn được gọi là thành (phố) Gia Định. Người Pháp đến đây, gọi nó là “tỉnh Raigon”, rồi xây “thị xã” Sài Gòn trên đất Bến Nghé, sau là phường Bến Nghé, quận Nhất.
Prey Nokor – Chợ Lớn (trên bản đồ hiện nay là từ Gò Cây Mai chéo xuống đến vùng Chợ Quán bên kênh Tàu Hũ).
Kampong Krabei – Bến Nghé, nằm dọc con rạch lớn (Bến Nghé) kéo dài từ Chợ Quán đến chợ Thị Nghè ngày nay. Nó bao gồm nhiều con chợ khác, bao gồm cả chợ mới (chợ Bến Thành sau này).
*
Đến 1698, chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh vào lấy đất Chân Lạp, chiếm toàn bộ một vùng đất rộng lớn đặt tên là phủ Gia Định, trong đó có hai huyện là Phước Long (đất Đồng Nai bây giờ) và huyện Tân Bình (kéo dài từ biên giới Cam bây giờ đến Cần Giờ).
Do chính quyền chúa Nguyễn là chính quyền quân sự, nên với mỗi một đơn vị hành chính (huyện) họ đặt một doanh trại (dinh) để quản lý. Huyện Phước Long là dinh Trấn Biên còn huyện Tân Bình là dinh Phiên Trấn. Nghe tên gọi là biết vùng giáp biên sẽ là Trấn Biên (nay là Biên Hoà), vùng lấn ra bên ngoài biên giới (sang đất Chân Lạp) là Phiên (nay là Tp Hồ Chí Minh).
Lúc này đất chúa Nguyễn (Đàng Trong) là đất mới, giàu có, sôi động, đặc biệt là Hội An. Bên Tàu thì nhà Thanh chiếm Yên Kinh, cai trị Trung Hoa. Người Hoa bỏ đi, đến xin chúa Nguyễn đất sống. Chúa Nguyễn ban cho Trần Thượng Xuyên đến Biên Hoà, Dương Ngạn Địch ở Mỹ Tho. Họ làm ăn buôn bán, góp phần xây dựng vùng đất giữa Biên Hoà – Mỹ Tho trở nên sầm uất. Vùng đất đó là Sài Gòn – Gia Định sau này.
Đến khi Nguyễn Nhạc tàn sát người Hoa, người Hoa buộc phải dồn về vùng Prey Nokor, hình thành vùng đất sau có tên là Sài Gòn (rồi sau khi tên Sài Gòn được Pháp dùng để chỉ Bến Nghé thì vùng Sài Gòn cũ “đành phải” lấy tên Chợ Lớn.)
*
Trước khi chiến tranh với Tây Sơn nổ ra, Gia Định tuy là phủ nhưng viên quan đứng đầu (Điều khiển Gia Định – 1731) và bộ máy quân-chính ở đây lại quản tới năm dinh (quan Điều khiển ngũ dinh – 1753), tức là về cơ bản là quản lý toàn bộ Nam Bộ trừ Hà Tiên của những tướng người Hoa Mạc Cửu – Mạc Thiên Tích lúc này là tự trị.
Chiến tranh với Tây Sơn xảy ra, 1775 Nguyễn Phúc Thuần bỏ chạy vào Gia Định, biến nơi này thành bản doanh chống Tây Sơn. Sau này Nguyễn Ánh cũng lấy Gia Định làm cứ địa, từ đó thống nhất đất nước, đặt ra nước Việt Nam hiện đại ngày nay.
Đến năm 1800 thì Nguyễn Ánh đổi phủ Gia Định thành trấn, gọi là Gia Định trấn, bao gồm bốn dinh (Trấn Biên, Phiên Trấn, Trấn Định, Long Hồ), đồng thời nâng huyện Tân Bình lên thành phủ Tân Bình.
Năm 1802 nước Việt Nam hiện đại ra đời.
Năm 1808 trấn Gia Định được nâng cấp thành Thành Gia Định, vai trò là Tổng trấn (Gia Định thành tổng trấn), có năm trấn bao gồm cả trấn Hà Tiên. Gia Định Thành (như trong Gia Định Thành Thông Chí) được hiểu là gần như cả Nam Bộ, tính từ Biên Hoà đổ xuống phía Nam. Người đứng đầu, do vẫn là chính quyền quân sự, là một ông tổng tư lệnh, gọi là Tổng trấn. Tổng trấn nổi tiếng nhất là Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt được Gia Long trao quyền bảo trợ vương quốc Chàm phía nam Trung Bộ ngày nay. Tổng trấn Gia Định có quyển lực rất lớn nên tiếng Tây phải dịch ra là viceroy (phó vương).
Dưới thời Gia Long, Gia Định (Bến Nghé) trở thành một thương cảng quốc tế sôi động, có nông nghiệp và các ngành thủ công phát triển. Thị Nghè được chọn để mở thuỷ xưởng Ba Son, sau này trở thành xưởng đóng tàu chiến lớn nhất khu vực với các xóm làm công nghiệp phụ trợ vậy quanh (đến khi Pháp chiếm Sài Gòn vẫn còn Xóm Đơm Buồm).
Gia Định (Nam Bộ) thành một vùng đất đa sắc tộc đa văn hoá (Khmer, Chàm, Việt, Hoa, Lào, Malay, Xiêm) có kết nối qua lại với các dân Thượng cao nguyên, và tất nhiên là có cả những tộc người từ châu Âu xa lạ.
*
Khi Minh Mạng lên ngôi, rồi sau khi Lê Văn Duyệt chết (1832), ông hoàng đế này xoá luôn Gia Định Thành theo nghĩa là một quân khu rộng lớn che khắp Nam Bộ, chia thành sáu tỉnh (lục tỉnh), đổi chính quyền quân sự thành dân sự, tập trung quyền lực về chính quyền trung ương. Sáu tỉnh đó là Biên Hoà, Phiên An (huyện Tân Bình cũ), Định Tường, Vĩnh Long, Hà Tiên, An Giang. Sau đó ông đổi tên Phiên An thành tỉnh Gia Định. (Thành Phiên An của Gia Long cũng bị Ming Mạng phá năm 1833 để xây thành Gia Định nhỏ hơn, nằm giữa Mạc Đĩnh Chi và Nguyễn Bỉnh Khiêm bây giờ, rất gần Thị Nghè)
Gia Định từ tên một vùng đất rộng lớn, trở thành tên một tỉnh nhỏ. Sau này thành cụm ba vùng: Gia Định – Sài Gòn – Chợ Lớn suốt thời kỳ cộng sản hoạt động bí mật (trước 1945), chính quyền Việt Minh chống Pháp (trước 1954) và thời kỳ Việt Cộng hoạt động bí mật (trước 1975). (Tỉnh Gia Định này bao gồm các quận Bình Thạnh, Phú Nhuận và Tân Bình bây giờ.)
*
Năm 1832 cũng là năm Minh Mạng sáp nhập đất Chàm vào Đại Nam, nối liền Đại Nam thành một dải Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ. Các tiểu quốc Chàm – Thượng bị Ngô Đình Diệm dẹp bỏ hoàn toàn năm 1958 khi thành lập tỉnh Lâm Đồng.
*
Khi người Pháp đến khu Bến Nghé của Gia Định, nó không còn là đô thành của nhà Nguyễn mà bị hạ cấp xuống thành tỉnh nhỏ. Nhưng hạ tầng đô thị của nó vẫn còn, và vẫn là thương cảng lớn. Trục đường lớn, dù là đường đất, mà người Pháp thấy dẫn từ sông lên phía cao hơn và trung tâm hơn của thành phố, sau là đường Catinat (Đồng Khởi). Và người Pháp gọi tỉnh Gia Định này là “provincia Rai-gon (tỉnh Rai Gon)”, “Raigon-thong Rài Gòn Thượng”, “Rai-gon ha (Rài gọn Hạ)”.
Những năm đầu, sau khi chiếm Gia Định, Pháp áp dụng chế độ soái phủ (quân chính) bằng cách bổ nhiệm các đô đốc hải quân nắm chính quyền (thống đốc Nam Kỳ). Năm 1867, Đô đốc La Grandiere ra nghị định xác lập Sài Gòn (tức là vùng Bến Nghé) theo quy chế commune (thị xã), do một Hội đồng thị xã có 13 thành viên đứng ra quản lý. Người đứng đầu gọi là maire (thị trưởng).
Năm 1877, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh cho Sài Gòn hưởng quy chế thành phố cấp 1 (municipalite de premiere classe). Chợ Lớn được Thống đốc Nam Kỳ, năm 1879, lúc đó là de Vilers cho hưởng quy chế thành phố cấp 2 (Municipalite de deuxieme classe).
Năm 1888, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập Khu Sài Gòn – Chợ Lớn, đứng đầu là trưởng khu (chủ tịch) Hội đồng quản trị Khu Sài Gòn – Chợ Lớn (Conseil d’administration de la Region de Saigon-Cholon).
Năm 1923, Toàn quyền Đông Dương Maurice Long bổ nhiệm Ernest Hébrard làm Giám đốc sở quy hoạch Đông Dương. Ernest Hébrard là nhà đô thị học đã quy hoạch lại thành phó Thessalonika của Hy Lạp sau khi thành phố này chịu động đất và hoả hoạn.
Ernest Hébrard quy hoạch Sài Gòn Chợ Lớn thành một khu “đại đô thị” sinh đôi với hai thành phố song sinh (twin cities) là Sài Gòn và Chợ Lớn: Sài Gòn (nay là quận Nhất) là hành chính, Chợ Lớn (nay là quận 5) là thương mại công nghiệp, vùng ven bên kia rạch Bến Nghé (thuộc thành phố Chợ Lớn cũ, sau này là quận Tư) dành cho thợ thuyền, bên kia sông Sài gòn (Thủ Thiêm) là dân lao động phổ thông. Tuy là một vùng đô thị nhưng vẫn có khoảng giãn cách (5km) giữa hai thành phố để làm vùng đệm, nơi dân ngoại kiều (Hoa) làm thuê cho Pháp (ở Sài Gòn) được sống ở giữa. Người Việt làm cho Pháp ở bên kia Thị Nghè (nay là Bình Thạnh). Những dấu vết quy hoạch “ai sống ở đâu” còn dấu vết cho đến cuối những năm 1990.
Sắp tới đây, nơi xưa kia là thành Gia Định (Bến Nghé) sẽ thành Phường Sài Gòn. Một địa danh cũ quay lại. Nhưng một địa danh có lẽ còn lâu đời hơn, là Bến Nghé, có thể sẽ mất đi. Thủ Thiêm thay đổi hoàn toàn. Quận Tư thay đổi gần hết, trừ những khu như khu Xóm Chiếu. Bình Thạnh vẫn còn lác đác các biệt thự lai Tây Tàu của dân Việt làm cho sở Tây, nhưng ít dần, các khu phố có chỗ vẫn còn giống các làng xóm Gia Định ngày xưa.
March 30, 2025
Thuyền cổ Bắc Ninh: Một ánh nhìn xa xăm
Đế quốc La Mã trở thành siêu cường thời cổ một phần lớn là do sở hữu quân đội hùng mạnh. Quân đội La Mã hùng mạnh nhờ một phần vào vũ khí công nghệ cao, nhưng rất thú vị: bí quyết công nghệ và kỹ thuật sản xuất có thể dễ dàng chuyển giao cho các xí nghiệp nhỏ ở các làng mạc, tức là các nhóm thợ tay nghề cao. Các nông dân Rome, kể cả phụ nữ, có thể tham gia rèn các mũi nhọn để gắn vào ngọn giáo, thuộc da và chế keo dán, làm dây bện dùng vào việc khâu, dán, ghép các tấm da vào khuôn gỗ tạo thành những tấm khiên nhẹ nhưng chắc chắn. Tương tự như vậy là chế tác các cánh cung lớn (ghép gỗ) và khoẻ, dây cung cực chắc. Nhờ sản xuất vũ khí được đưa xuống quy mô tư nhân nhỏ, thay vì phải làm trong công xưởng của đế chế, quân đội La Mã có vũ khi nhanh, tốt và rẻ để đưa vào sử dụng.
Những xưởng chế vũ khí nông dân này về sau chuyển biến thành kỹ thuật dân sự, nông dân làm vũ khí trở thành các nghệ nhân và thợ thủ công làm đồ da, đồ gỗ, làm thợ rèn, thợ khâu. Ở thời cổ ấy đem so với ngày nay thì các nghệ nhân là các nhà khoa học nắm bí quyết công nghệ, còn thợ lành nghề là các kỹ sư.
*
Luy Lâu trở thành trung tâm Phật giáo sau khi vai trò cảng thị thương mại và thủ đô hành chính (của châu Giao rộng lớn) dần mất vào tay Long Biên.
Khảo cổ của Nishimura năm 2014-2019 tìm thấy các khuôn và phễu đúc đồng (niên đại thế kỷ 4) cho thấy ở Luy Lâu có đúc đồng. Nhưng nghề đúc đồng ở Bắc Ninh không còn dấu vết. Đó là do khi nhà Lý dời đô về Thăng Long, các nghệ nhân đúc đồng, tức là các kỹ sư nắm công nghệ cao để sản xuất vũ khí thời đấy, bị kéo về Thăng Long.
Nhưng các làng nghề thủ công khác của họ không mất đi, và còn đến ngày nay. Một trong những ngón nghề xuất sắc nhất của Bắc ninh, trong nghề thủ công, là thêu rút sợi, nay chỉ còn dùng trong các sản phẩm thời trang cao cấp (và đang dần mai một). Nghề thêu này là một chút di sản còn sót lại của thuỷ xưởng nhà Lý, nơi nhưng nông dân khoẻ mạnh và khéo léo nhất của xứ Dâu Keo (Luy Lâu) Thuận Thành được tuyển về để khâu cánh buồm.
Chữ” buồm”, theo John Phan, là một từ Hán Việt sơ kỳ (Hán Việt cổ).
Từ “chài”, trong “xóm chài”, “vạn chài”, có thể là từ tiếng Phạn-Chàm “jala” có nghĩa là lưới (trong tiếng Việt vậy là có láy đẳng nghĩa chài-lưới.)
*
Đô thị Luy Lâu cổ thời Sĩ Nhiếp (thế kỷ 3) nằm ở một đồng bằng mini cực đẹp, kiểm soát toàn bộ đồng bằng sông Hồng và sông Thái Bình. Dựa vào hệ thống sông ngòi cổ dày đặc, từ Luy Lâu dễ đi đường sông lên phía Bắc, dễ đi ra biển phía Đông (rồi ngược lên Quảng Yên/Quảng Ninh, rồi Quảng Đông; hoặc men theo bờ biển mà xuống Chàm, hoặc đi về phía Nam Đảo).
Luy Lâu là một cái thành nhỏ, diện tích chắc chỉ bằng khu uỷ ban xã ở một huyện xa bây giờ. Phía bắc của thành là con sông Đuống chạy ngang (Tây Đông), bên cạnh thành là con sông Dâu (một con sông cổ) chạy dọc xuống (Bắc Nam). Thành ở bên tả ngạn. Dọc theo bờ sông, kéo dài khoảng hơn một cây số, là thành Luy Lâu, chùa Dâu, (nay còn chợ Dâu), đối diện bên kia sông (hữu ngạn) là Hà Mãn.
Mãn Xá (kẻ Mèn), khu phố thuộc Hà Mãn, là nơi phát tích Man Nương, mà truyền thuyết (chắc mới được bịa ra thời Lý, tức thế kỷ 11) kể một câu chuyện về tận thời Sĩ Nhiếp, trong đó Man Nương (nhờ qua tay một kẻ quyền thế là Sĩ Nhiếp) gián tiếp sinh ra Tứ Pháp và do đó trở thành Phật Mẫu. Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện được thờ ở các chùa Dâu, Đậu, Tướng, Dàn.
Nhà của Man Nương nay là chủa Tổ.
Gần đấy, là nơi người ta mới tìm ra con thuyền cổ Bắc Ninh (2025).
*
Khi Lê Hoàn, một ông tướng chẳng may chén được vợ vua (hoặc cố ý chén để dễ bề hợp thức hoá) và thành vua, ông đã làm hai việc quan trọng: cải cách quân đội (thành chính quy) và cách mạng công nghệ sản xuất (đắp đê trị thuỷ phục vụ nông nghiệp).
Nhưng phải đến thời nhà Lý, với ba ông vua đầu tiên lên ngôi khi đã là người lớn, có học, có tầm nhìn, có tư duy kiến quốc thì nước ta mới có thêm giáo dục, hành chính, ngoại thương, xây dựng hạ tầng (làm đường, đào kênh), quản lý dân số, phân bổ lao động, hợp pháp hoá tư hữu cho giới quý tộc và đánh thuế (cho phép quý tộc, tuỳ cấp, được quyền thu các loại thuế khác nhau.). Nhà Lý cũng có ý thức rất mạnh về vị thế quốc gia, họ đổi tên nước thành Đại Việt, xây dựng quân đội hùng mạnh để chinh phạt mở mang bờ cõi (Chàm), khống chế lân bang (Xiêng Khoảng), khuất phục các thủ lĩnh miền cao.
Ngoại thương cho đến trước thời Lý chỉ có đô thị cổ Luy Lâu là mạnh nhất, nơi các thuyền buôn từ phía Nam (Java, Thái, Chàm hoặc từ rất xa như La Mã) tụ đến. Qua thời Lý, thì Vân Đồn dần là thương cảng lớn, thay thế cho Luy Lâu. Người Việt ở Vân Đồn (Quảng Yên) biết đón tàu của người Chàm, lấy sản vật của họ buôn vào nội địa, hoặc mang sang Ung Châu bằng thuyền chở hàng.
Những cái thuyền chở hàng ấy, đóng ở Mãn Xá, bên bờ sông Dâu.
*
Dân Dâu Keo (Luy Lâu) từ sớm đã giao tiếp với dân đi biển gốc Nam Đảo và do đó quen thuộc với các tàu buồm hai đáy (hai thân, hai lòng, lưỡng phúc – twin hulled). Loại thuyền này rất quen thuộc với dân đi biển khắp các đảo Thái Bình Dương, mà ở gần ta nhất là vùng Nam Đảo.
Chạy bằng buồm, có thể đi ngược gió, khó lật dù đáy thuyền nông, nên loại thuyền hai đáy dễ dàng vượt biển. Do đáy nông, nó dễ dàng đi vào cửa biển, ngược các sông lớn, phụ lưu, chi lưu và vào đến tận sông Dâu (một con sông nhỏ) rồi cập bến Luy Lâu.
Người dân Dâu Keo bên bờ hữu sông Dâu, nơi xóm nhà Man Nương (quen thuộc với thân gỗ trôi sông chứa người giống như độc mộc phảng phất thông điệp qua truyền thuyết), dần học được nghề vá buồm, sửa thuyền và cuối cùng là có nghề đóng thuyền hoàn chỉnh.
Khi vua Lý mở thuỷ xưởng đóng thuyền xây dựng hải quân, Mãn Xá (kẻ Mèn) được chọn.
*
Thời Lê Hoàn hải quân Chàm đã đủ mạnh để theo Ngô Nhật Khánh kéo ra đến cửa Thần Phù để đánh vào Hoa Lư (năm 979). Mấy năm sau để chuẩn bị chinh phạt Chiêm Thành, Lê Hoàn mới cho đóng chiến thuyền. Thuỷ xưởng manh nha hình thành ở Luy Lâu gần quê gốc của tướng Lý Công Uẩn, về sau là vua đầu tiên nhà Lý.
Thời vua đầu nhà Lý là Lý Công Uẩn các cuộc chinh phạt ít dùng hải quân. Năm 1011 ông mang một đội quân lớn đi dẹp loạn ở Thanh Nghệ, chiến dịch kéo dài hai năm và rất tàn bạo. Lúc về ông mới dùng đến thuyền và gặp bão.
Đến vị vua thứ hai là Lý Phật Mã, ở giai đoạn cực thịnh 1042-1044 (Minh Đạo), nền kinh tế của ông vua này mới đủ sức xây dựng hạm đội biển có thể triển khai quân xa Thăng Long cả ngàn cây số. Đây là giai đoạn thuỷ xưởng bên sông Dâu được đầu tư mạnh mẽ nhất. Chiến dịch bình Chiêm năm 1044 thì hải quân nhà Lý đã tương đối mạnh, đủ chở đội quân đủ lớn đi từ cửa biển Đại Ác đến Tư Dung, dàn quân lên bộ tràn vào giết ba chục ngàn người Chàm, bắt về năm ngàn người.
Đến năm 1069 thì hải quân của ông vua thứ ba là Lý Nhật Tôn có tới 200 thuyền đi đánh Chiêm, kéo dài mấy tháng, phá hàng ngàn căn nhà của họ, bắt về được năm vạn người (lúc về chắc phải dùng thêm thuyền chiếm được của Chàm). Tướng chỉ huy của chiến dịch này là Lý Thường Kiệt. Đến năm 1075 Lý Thường Kiệt dùng chính lực lượng hải quân này đánh đến tận châu Ung (Nam Ninh).
*
Thuỷ xưởng Mãn Xá (kẻ Kèn) không chỉ đóng tàu chiến mà còn đóng tàu riêng cho các gia đình quý tộc. Họ dùng để đi thu thuế và đi lại như đại gia ở Vn đầu thế kỷ 20 tậu xe hơi đi thu tô.
Đến thời vua thứ tư trở đi, đất nước kinh tế phát triển, xã hội thanh bình, giới quý tộc bắt đầu giàu có đua nhau đóng thuyền riêng (một thú vui xa xỉ hồi đó). Thuyền để đi công tác đặc biệt, liên lạc giữa các phe phái cát cứ vào cuối thời Lý (chính trị suy tàn, thái tử Lý Sảm tự chiếm đất quy tụ các hào trưởng địa phương lập triều đình).
Không có thuyền riêng nên tướng Phạm Du, phải đợi người đưa thuyền đến đón đi đàm phán , đợi lâu nên tranh thủ giao hợp với công chúa Thiên Cực, lỡ thuyền nên bị bắt giết (1209).
Phe bên kia có Tô Trung Từ về sau thống nhất được lực lượng, lại dính phải công chúa Thiên Cực, đang giao hợp với cô này thì bị chồng bắt tại trận giết luôn (1211). Gia đình Tô Trung Từ biết là toang cả nhà, may mà có thuyền nên trốn được.
*
Phạm Du là tướng, tham nhũng rất mạnh tay, nhưng keo bo, toàn đi nhờ thuyền người khác, mãi mới chi tiền đặt thuỷ xưởng làm thuyền riêng, đang làm dở thì chết.
Không ai chi tiền làm nốt nên con thuyền hai lòng của Phạm Du dở dang nằm bên bờ sông Dâu. Năm 1214 đất nước loạn lạc, các sứ quân đánh lẫn nhau, Trần Tự Khánh đốt Thăng Long đưa vua trốn xuống Hà Nam. Khu công nghiệp và thương mại Luy Lâu suy tàn. Vùng đất ven sông Dâu này dần bị bồi lấp. Thuỷ xưởng trở thành xưởng gốm, rồi thành chợ, rồi thành khu dân cư. Con sông cổ cũng chết mòn.
*
Con thuyền Phạm Du vẫn nằm đấy. Cho đến gần đây nó bất ngờ hiện ra như một chỉ dấu mong manh cho ta biết vùng đất này xưa đã từng có một thuỷ xưởng đóng hạm đội Lý Thường Kiệt.










February 17, 2025
Nhìn từ một định lý của Poincare: saṃsāra (luân hồi) vs śūnya (tính không) – Và dịch số của Thiệu Ung
Mới đây trên arxiv xuất hiện một công trình toán vật lý có tên là Cosmohedra. Công trình này sử dụng hình học (polygon, sub-polygon…) để xác định các đối tượng hình học nền tảng (mà các tác giả gọi là cosmohedron) của hàm sóng vũ trụ (cosmological wavefunction). Nếu công trình này đúng, và đi đúng hướng, thì nó sẽ đặt nền móng cho các nhà vật lý giải được hàm sóng (lượng tử) của cả vũ trụ.

Năm 1890, Poincaré đề xuất một ý tưởng mà sau khi được chứng minh (1919) thì nó trở thành định lý mang tên ông “Poincaré Recurrence Theorem”. Định lý này nói rằng một hệ có cấu hình (configuration) bất kỳ, cứ để nó tiến hoá (thay đổi) theo thời gian, đến một lúc nào đó cả hệ sẽ quay lại configuration đầu tiên. Tức là hệ đó được “tái sinh”. Nếu là một hệ liên tục, nó sẽ tái sinh gần giống configuration ban đầu, với một sai số nhỏ. Nếu là hệ rời rạc, nó tái sinh đúng 100% như lúc đầu tiên. Mà hệ lượng tử là hệ rời rạc. (Tiến hoá theo thời gian ở đây là tiến hoá theo các định luật của tự nhiên, ví dụ các định luật vật lý, chứ không phải tiến hoá theo các bước ngẫu nhiên.)
Hệ phương trình Einstein (Thuyết tương đối tổng quát) là hệ phi tuyến. Nếu vũ trụ tiến hoá theo phương trình Einstein, đến một lúc nào đó nó sẽ gặp điểm kỳ dị (singularity) và không gian – thời gian sẽ chấm dứt. Hoặc đi ngược về quá khứ, sẽ có một thời điểm ở đó không gian và thời gian được sinh ra. Có khởi đầu và kết thúc.
Hàm sóng lượng tử (phát triển từ bản gốc của Schrödinger) là tuyến tính. Với một số điều kiện đặc biệt (có biên/bounded) và số trạng thái lượng tử (không gian Hilbert) là không vô hạn, nếu vũ trụ tiến hoá theo hàm sóng thì thời gian sẽ chảy liên tục về vĩnh hằng tương lai, hoặc nhìn về quá khứ cũng sẽ thấy thời gian đến từ vĩnh hằng quá khứ. Tức là thời gian không có khởi đầu và kết thúc.
Nếu thời gian là dòng chảy vô hạn, thì đến một thời điểm nào đó trong tương lai, dù rất là xa (nhưng hữu hạn) thì theo định lý Poincare vũ trụ sẽ tái sinh.
Trong trường hợp này Luân hồi là một học thuyết đúng. Nhưng nếu học thuyết này đúng nó sẽ phủ nhận khái niệm Tính không. Bởi tính không đi kèm với một vũ trụ unbounded.
Hơn nữa, nếu vũ trụ là lượng tử, nó buộc phải có các tự tính (intrinsic) ví dụ như spin mà tính không lại phủ nhận tự tính (svabhāva). Cho nên nếu áp dụng vật lý lượng tử vào phật học, thì hoặc ta phải chấp nhận học thuyết luân hồi và phủ nhận tính không, hoặc phủ nhận luân hồi, chấp nhận tính không.
Duy có học thuyết vô ngã (anātman) là luôn tồn tại, bất kể dùng lý thuyết Einstein hay lý thuyết của Schrödinger.
(Poincaré là người đặt nền tảng toán học cho thuyết tương đối. Vì thế ông này từ chối thừa nhận thuyết tương đối là của Einstein. Einstein trái lại, thừa nhận thuyết tương đối hẹp của mình và thuyết của Poincaré (gồm hai paper khác nhau) là tương đồng về toán học. Sau khi Poincaré chết và trước khi Einstein chết, Einstein vẫn phát biểu ghi nhận Poincaré. Một số nhà vật lý cứng đầu vẫn cho rằng Poincaré và Lorentz mới là những người tìm ra thuyết tương đối. Ý tưởng sóng hấp dẫn của Einstein thực ra cũng do Poincaré đề xuất. Vậy nên cho đến cuối thế kỷ 20 nhiều người vẫn nghi ngờ rằng Poincaré mới là người tìm ra phương trình E=mc^2 của thuyết tương đối hẹp, chứ không phải Einstein.)



*
Dịch số của Thiệu Ung
Mới được một cháu gái tặng bộ sách về tiên tri của nước Mỹ (và nay cũng là tiên tri của thế giới vì Mỹ gắn sâu vào toàn cầu), và cuốn sách về dịch bói của Thiệu Khang Tiết tên là “Hoàng Cực Kinh Thế” (xem ảnh). Mới viết vài dòng review về Thiệu Khang Tiết (Thiệu Ung) và vũ trụ quan cũng như lý thuyết Dịch số của ông này.

*
Neil Turok và Latham Boyle trong hai năm (2023, 2034) đưa ra hai nghiên cứu mới rất táo bạo (xem ảnh). Vì táo bạo nên nó khó gây tiếng vang, mãi cho đến những tháng gần đây. Nghiên cứu mới của hai anh này gợi nhớ đến một lý thuyết số (dịch số, để xem bói) của Thiệu Ung thời nhà Tống.
Neil Turok là nhà vật lý hiếm hoi uyên thâm tất cả các nhánh vật lý hiện đại (lượng tử, hấp dẫn, tương đối và thống kê) đồng thời am tường tất cả các nhánh vật lý mới (thuyết dây, lượng tử hấp dẫn). Lúc còn trẻ anh này cùng với một nhà vật lý rất lớn hồi đó là Paul Steinhardt đề xuất một mô hình vũ trụ tên là Ekyprotic universe. Paul Steinhardt là một trong những nhà vật lý đặt nên tảng cho thuyết lạm phát vũ trụ, sau đó lại từ bỏ hướng đi này. Ekyprotic, có gốc Hy Lạp là ἐκπύρωσις, là tên vũ trụ luận của triết phái cổ Hy Lạp Stoic. Thuyết này cho rằng vũ trụ bùng nổ, nguội, rồi bùng nổ, nguội,… diệt rồi tái sinh, luân hồi.


*
Vật lý hiện đại kể từ quãng 198x bắt đầu đi vào bế tắc (nên người ta gọi là cuộc khủng hoảng của vật lý hiện đại). Các lý thuyết mới và tiềm năng hồi đó được đổ hàng núi tiền vào, thu hút bao nhân tài vật lý, cuối cùng thành ra ảo ma hết, từ thuyết vũ trụ lạm phát, thuyết dây, thuyết siêu dây, thuyết hấp dẫn lượng tử vòng vân vân đều đi vào chỗ bế tắc, hầu hết bị coi là nguỵ khoa học, thậm chí có những người nặng lời còn bảo là lừa đảo. Một vài nhà vật lý sáng suốt và cứng đầu kiên trì chống lại các thuyết ảo ma này, trong đó có Roger Penrose. Họ mất hàng chục năm trời để chiến đấu, may mà họ thành công. Các lý thuyết tốn kém hàng chục tỷ đô la và hàng chục năm nghiên cứu, cuối cùng gần như vô dụng.
[Trong cơ lượng tử có một vấn đề nan giải, gọi là measurement problem. Trong hệ tiên đề Dirac von Neumann mà cơ lượng tử hiện đại được xây dựng nên, thì phéo đo (measurement) và kết quả phép đo (observation) được định nghĩa mơ hồ. Về mặt triết học, cơ lượng tử vì vậy có những câu hỏi chưa trả lời được. Đầu tiên là câu hỏi ontology, đó là hàm sóng không “thực”, nó tiến hoá theo thời gian trong không gian vector trừu tượng không phải là không gian của thực tại (reality). Kết quả đo ấy là từ cái gì (có thực) mà có? Sau đó là câu hỏi epistemology, đó là kiến thức (thông tin) thực mà ta thu được giữa hai thời điểm set up hệ đo và thực hiện phép đo là gì. Cuối cùng là câu hỏi nomology, rằng các định luật nào vận hành, cái gì kích hoạt sự suy sụp (collapse) của hàm sóng, và nó suy sụp như thế nào. Liệu có một sóng dẫn đường, pilot wave, như trong thuyết biến ẩn (hidden variables) của Broglie-Bohm hay không. Và nếu đúng cơ học Bohm mới là thuyết đúng, liệu đó có phải là một dạng nhất nguyên luận (monism) hay không.]
Thế rồi người ta quay lại với Thuyết Đa thế giới của Everett, có những người cổ suý rất mạnh cho thuyết này như Sean Carroll. Thế rồi bất ngờ các công trình thực nghiệm liên quan đến John Bell từ những năm 196x đoạt Nobel vật lý năm 2022. Cả uỷ ban Nobel lẫn giới vật lý phần nào đều hiểu sai về John Bell. Thế là lại có các nhà vật lý khác đi chữa sai và hoá ra lại mở ra một hướng đi khả dĩ:
+ không gian dùng trong cơ lượng tử (không gian vector trừu tượng Hilbert) chỉ là nền cho các bộ khung toán học, nó predict được các outcome (dưới dạng xác suất) của phép đo, nhưng đó không phải là một đại lượng vật lý hoặc một tính chất vật lý đo được (quan sát được) trong thế giới thực (reality). Tức là cả phần động học (inner product) và động lực học (vi phân Hamilton theo thời gian) của cơ học lượng tử chỉ có thể tính toán được những cái “quan sát được” (kết quả phép đo) chứ không phải để biết “cái thực, và ở đó, lúc đó trong hệ lượng tử.
+ không có hàm sóng cho toàn bộ vũ trụ và hàm sóng này liên tục chia tách, tức là Thuyết Đa thế giới sai. Bởi theo Đa thế giới (Many-Worlds theory) thì có một hàm sóng vận hành cả vũ trụ, nó liên tục chia tách, ở nhánh này thì con mèo Schrodinger sống, ở nhánh kia con mèo Schrodinger chết. Nhưng do tổng xác suất các nhánh phải bằng 1, nên ắt phải có những yếu tố nền tảng nào đó thêm vào, ví dụ phải có mối quan hệ siêu hình giữa các nhánh.
+ thậm chí không có cả “hàm sóng” theo nghĩa physical, bởi hàm sóng Schrodinger “chỉ là” một mathematical formalism để tính toán xác suất “quan sát” được một trạng thái (quantum state) của một hệ lượng tử (quantum system).
+ cơ lượng tử dựa trên hệ tiên đề Dirac von Neumann cần được xem lại.
+ cơ học Bohm là đúng dù nó vi phạm định xứ (tức là phi định xứ) và có thể đây mới là hướng đi đúng của cơ lượng tử (chứ không phải Copenhagen).
+ cuối cùng, cần phải tìm hiểu sâu hơn các ý tưởng của John Bell. Bell phủ nhận “observable” (observ-able cái có thể quan sát được) vì đó chỉ là kết quả của công cụ toán học (hàm sóng, mật độ xác suất) chứ không phải là cái có thật, hiện hữu thật, ở đó, vào lúc đó, mà Bell gọi là Beable (be-able cái có thực), nhất là local beables.
*
Neil Turok và cộng sự đưa ra một giả thuyết mới. Với anh Turok, các lý thuyết thất bại (lạm phát, dây,…) đưa vào quá nhiều giả định, nay cần điều chỉnh lại. Anh đựa vào một thuyết cực kỳ thành công là Standard Model, rồi đưa vào các giả định rất đặc biệt, đó là các dimension zero field.
Giả thuyết này đi đến nhiều kết luận. Ví dụ vũ trụ của chúng ta sinh ra từ Big Bang, nhưng chiều thời gian (arrrow of time) lại chỉ có một chiều tiến (từ quá khứ đến tương lai), trong khi các chiều khác ta đều có thể tiến lùi thoải mái. Hoặc tại sao vũ trụ của chúng ta chỉ có vật chất, mà không có phản vật chất. Thuyết mới của Turok nói ra Big Bang sinh ra hai vũ trụ (đối xứng gương), bên này chúng ta có thời gian đi theo chiều này và có vật chất. Bên kia thời gian đi theo chiều ngược lại và có phản vật chất.
Áp dụng vào black hole thì sẽ có black mirror. Lỗ đen là một mặt phẳng, giới hạn bởi đường sự kiện. Vật chất đi vào và không thoát ra được, và theo hiểu biết cũ thì nó đi vào điểm kì dị ở vô cực. Theo thuyết mới thì hạt vật chất đi đến mặt lỗ đen như đi đến một cái gương, nhưng nó không “nhìn thấy nó” (như ta nhìn thấy ta đối xứng trong gương sáng) mà “nhìn” thấy phản hạt đi đến mặt gương từ phía bên kia. Chúng gặp nhau ở mặt gương, huỷ nhau và biến về vô cực.
*
Trong các sách dịch (kinh dịch, dịch truyện, dịch vỹ) thì Thái Cực Đồ luôn đồng nhất với Vô Cực Đồ, nhưng có gì đó sai sai, vì Vô cực phải là dimension zero (không có cực), còn Thái cực tự nó bao hàm bên trong Lưỡng Nghi (hai con cá đen trắng lộn đầu đuôi quấn lấy nhau ). Ngay từ gốc triết học (vũ trụ quan) của Trung Hoa đã có sự hoà hợp, nhưng khập khiễng ở chỗ này, dù họ luôn cố gắng nhập Thái cực với Big Bang. Rồi cố gắng dùng số (nhị phân, của Leibniz) để giải thích các kiểu tượng quẻ hào trong bói dịch.
Vũ trụ quan đạo giáo của TQ đều dựa vào các thuyết dịch số. Họ cố gắng dùng số để giải thích sự ra đời, vận hành và chu kỳ của Vũ trụ, và đều dựa vào Thái cực, Lưỡng Nghi và khái niệm Âm-Dương, Càn-Khôn, Ngũ Hành, Ngũ Khí, Vạn Vật.
Nhưng riêng Thiệu Ung (Thiệu Khang Tiết) thì coi Thái Cực là cái gì đó không có (tức là Vô Cực) nhưng lại là nền tảng, trên đó ông dựng đồ hình bắt đầu từ Lưỡng Nghi (hai hào, một liền một đứt), nhưng lại không phải Âm Dương mà là tĩnh và động. Tức là empty và quantum fluctuation. Càn Khôn sẽ là hai thái cực của phản hạt và hạt, còn triệt tiêu nhau sẽ giống như annihilation trong quantum, khi hạt và phản hạt gặp nhau ở bề mặt blackhole rồi đi về vô cực. Tất nhiên dịch số không phải là khoa học, và rất xa với vật lý theo nghĩa khoa học, nhưng sự tương đồng thế này là rất thú vị, nhất là khi ta tìm hiểu thuyết số và tiên thiên đồ của Thiệu Ung.
Nhìn từ một định lý của Poincare: saṃsāra (luân hồi) vs śūnya (tính không)
Mới đây trên arxiv xuất hiện một công trình toán vật lý có tên là Cosmohedra. Công trình này sử dụng hình học (polygon, sub-polygon…) để xác định các đối tượng hình học nền tảng (mà các tác giả gọi là cosmohedron) của hàm sóng vũ trụ (cosmological wavefunction). Nếu công trình này đúng, và đi đúng hướng, thì nó sẽ đặt nền móng cho các nhà vật lý giải được hàm sóng (lượng tử) của cả vũ trụ.

Năm 1890, Poincaré đề xuất một ý tưởng mà sau khi được chứng minh (1919) thì nó trở thành định lý mang tên ông “Poincaré Recurrence Theorem”. Định lý này nói rằng một hệ có cấu hình (configuration) bất kỳ, cứ để nó tiến hoá (thay đổi) theo thời gian, đến một lúc nào đó cả hệ sẽ quay lại configuration đầu tiên. Tức là hệ đó được “tái sinh”. Nếu là một hệ liên tục, nó sẽ tái sinh gần giống configuration ban đầu, với một sai số nhỏ. Nếu là hệ rởi rạc, nó tái sinh đúng 100% như lúc đầu tiên. Mà hệ lượng tử là hệ rời rạc.
Hệ phương trình Einstein (Thuyết tương đốii tổng quát) là hệ phi tuyến. Nếu vũ trụ tiến hoá theo phương trình Einstein, đến một lúc nào đó nó sẽ gặp điểm kỳ dị (singularity) và không gian – thời gian sẽ chấm dứt. Hoặc đi ngược về quá khứ, sẽ có một thời điểm ở đó không gian và thời gian được sinh ra. Có khởi đầu và kết thúc.
Hàm sóng lượng tử (phát triển từ bản gốc của Schrödinger) là tuyến tính. Với một số điều kiện đặc biệt (có biên/bounded) và số trạng thái lượng tử (không gian Hilbert) là không vô hạn, nếu vũ trụ tiến hoá theo hàm sóng thì thời gian sẽ chảy liên tục về vĩnh hằng tương lai, hoặc nhìn về quá khứ cũng sẽ thấy thời gian đến từ vĩnh hằng quá khứ. Tức là thời gian không có khởi đầu và kết thúc.
Nếu thời gian là dòng chảy vô hạn, thì đến một thời điểm nào đó trong tương lai, dù rất là xa (nhưng hữu hạn) thì theo định lý Poincare vũ trụ sẽ tái sinh.
Trong trường hợp này Luân hồi là một học thuyết đúng. Nhưng nếu học thuyết này đúng nó sẽ phủ nhận khái niệm Tính không. Bởi tính không đi kèm với một vũ trụ unbounded.
Hơn nữa, nếu vũ trụ là lượng tử, nó buộc phải có các tự tính (intrinsic) ví dụ như spin mà tính không lại phủ nhận tự tính (svabhāva). Cho nên nếu áp dụng vật lý lượng tử vào phật học, thì hoặc ta phải chấp nhận học thuyết luân hồi và phủ nhận tính không, hoặc phủ nhận luân hồi, chấp nhận tính không.
Duy có học thuyết vô ngã (anātman) là luôn tồn tại, bất kể dùng lý thuyết Einstein hay lý thuyết của Schrödinger.
(Poincaré là người đặt nền tảng toán học cho thuyết tương đối. Vì thế ông này từ chối thừa nhận thuyết tương đối là của Einstein. Einstein trái lại, thừa nhận thuyết tương đối hẹp của mình và thuyết của Poincaré (gồm hai paper khác nhau) là tương đồng về toán học. Sau khi Poincaré chết và trước khi Einstein chết, Einstein vẫn phát biểu ghi nhận Poincaré. Một số nhà vật lý cứng đầu vẫn cho rằng Poincaré và Lorentz mới là những người tìm ra thuyết tương đối. Ý tưởng sóng hấp dẫn của Einstein thực ra cũng do Poincaré đề xuất. Vậy nên cho đến cuối thế kỷ 20 nhiều người vẫn nghi ngờ rằng Poincaré mới là người tìm ra phương trình E=mc^2 của thuyết tương đối hẹp, chứ không phải Einstein.)



November 16, 2024
Học toán ở Kỷ nguyên vươn mình

Kỷ nguyên mới có cần học toán không? Câu trả lời “đương nhiên là có”, nhưng là một thứ toán được dạy và học khác đi.
Hè rồi anh Vũ Hà Văn có đi qua Sài Gòn. Ngồi nói chuyện dông dài, tình cờ câu chuyện đi đến chỗ anh Văn đang có nghiên cứu sinh PhD Toán ở Princeton là người Việt và người Do Thái. Trả lời câu hỏi có đúng là sinh viên Do Thái nó vượt trội hơn không, anh Văn trả lời theo một hướng khác: Vấn đề không phải là cá nhân, mà dân tộc ấy nó khác mình. Mình thì cố gắng giải bài toán thật khó, và giải được là giỏi. Do Thái họ hỏi giải bài toán này làm gì, nếu “giải làm gì” ấy mà thiết thực, họ mới ngồi giải.
(Thực ra ở đây có một trường hợp đặc biệt, đó là giải bài toán này để giải được bài toán khác, đó chính là đi vào toán lý thuyết, toán tháp ngà, xa rời thực tiễn, hay nói đúng hơn là không quan tâm nhiều đến thực tiễn.)
Trong các môn khối A (toán lý hoá), hay trong Stem (phần math and science) thì Toán có một cái thiệt thòi rất lớn mà ít ai để ý.
Khi học hoá hay lý, hầu hết học sinh cấp 2 đều tiếp cận chủ đề học rất tự nhiên, các biết cái họ đang học là cái gì. Phản ứng oxy hoá là cháy, là kim loại bị gỉ. Định lý Archimedes là giải thích tại sao thuyền lại nổi, tại sao Lương Thế Vinh cân được con voi.
Nhưng toán từ cấp 2 trở lên có nhiều chủ đề học sinh hoàn toàn không thể hiểu “cái này là cái gì”. Đây là cái khó nhất khiến cho hầu hết học sinh mất niềm vui vào học toán cũng như không thể làm được toán. Khác với toán cấp 1 chủ yếu là cộng trừ nhân chia và các hình đơn giản, học sinh gần như tự nhiên biết “cái này là cái gì”. Bố mẹ các em cũng biết. Nhưng lên cấp hai, bắt đầu có những thứ “cái toán này là cái gì”. Và nếu không thể hiểu được cái này là cái gì, thì sẽ càng không hiểu dùng nó vào việc gì, dẫn đến việc giải toán (là một việc rất nhọc nhằn đầy tính chất techical) sẽ thất bại. Tất nhiên trả lời một cách thô sơ đại số là gì, lượng giác là gì thì rất dễ. Nhưng nó thực sự là cái gì thì rất khó. Mọi người thử ngồi nghĩ xem hình học là gì, đại số là gì xem sao. Rất khó để nói cho trẻ con hiểu được thực sự.
Để giải thích cái này là cái gì, và cái này để làm gì, là hai việc đồng thời và bổ sung cho nhau. Sách toán kiểu của DK hay giáo trình toán (STEM) của Cambride đều làm rất tốt việc này. Với sách của DK, họ còn vượt trội ở trình bày khoa học, đẹp mắt (vì graphic là thế mạnh của họ). Sách DK cũng không chia theo lớp, mà theo Stage, học sinh 5-6-7 có thể dùng chung sách, ví dụ vậy, tuỳ vào học lực của học sinh.
(Phải đặt mình vào vai học sinh sợ toán, không có khiếu học toán thì mới thấy học toán kiểu hiện nay không hiệu quả thế nào, và các thầy cô dạy toán phải vật lộn với phần lớn học sinh ra sao, số lượng học sinh thích toán và học được toán tính về tỷ lệ là rất khiêm tốn.)
Hiện nay sách giáo khoa và giáo viên đã định hình hết cả rồi, rất khó có thể thay đổi. Nhưng có thể có những cách tiếp cận khác, giống như dạy ngoại ngữ có cả ngàn kiểu rồi, mà vẫn có duolingo. Ở Việt Nam đó là… học thêm. Những chỗ mà nhà nước (sách giáo khoa và nhà trường) thất bại, thì là cơ hội cho tư nhân. Với dạy học, đó chính là… học thêm. Nhưng sẽ phải là online sao đó, như duolingo kết hợp với video trên youtube (vì các bài giảng tốt vẫn phải do giáo viên đứng lớp).
Có thể chia phần học thành nhiều layer, cái bề mặt thật sát với những gì practical đời thường, các lớp sâu hơn sẽ nặng về technical (giải toán) và lý thuyết toán.
Hầu hết tất cả những gì trong môn toán cho đến hết cấp 3 thì đều có bài toán thực tiễn cả. Nên để làm lớp bề mặt, cần những giáo viên trẻ nhưng hiểu biết nhiều ngành nghề, để biến tất tần tật những thứ cần dạy thành các bài toán thực tiễn . Mỗi bài toán ấy sẽ được hướng dẫn giải, và có thể soạn bài dạy bằng máy hoặc AI (như duolingo), học sinh có thể học trên smartphone mỗi ngày, được chấm điểm, cho thưởng, xếp hạng (như duolingo). Mà không chỉ học sinh, ai học cũng được. Cái khó nhất là đúc kết, ví dụ dòng nạp điện ắc quy cho xe vinfast sẽ phải dùng logarithm. Đây cũng chính là cách diễn giải cho học sinh hiểu “cái này là cái gì”, và “cái này dùng để làm gì”. Để hiểu được cũng là cả quá trình vỡ vạc dần ra, nhưng đây có thể là cách hiệu quả nhất, nhanh nhất.
Việc giải bài toán thực tiễn (practical problem) cũng chỉ cần dừng ở mức đơn giản, dùng công cụ toán nào, cho việc gì. Hầu hết chúng ta đều biết công thức tính thể tích hình cầu, nhưng có mấy ai biết công thức ấy ở đâu ra đâu, và chứng minh nó thế nào đâu (chứng minh rất khó, không phải đơn giản).
(Thế giới họ dạy toán bắt đầu bằng practical problem thế này nhiều rồi, như DK nói trên, ta tha hồ tham khảo, có điều không thuổng của họ được vì vẫn phải bám chương trình học của BGD, vì học sinh vẫn phải thi toán mỗi học kỳ.)
Học sinh nào tò mò về các công cụ toán được cung cấp, thì mới cần đi vào layer sâu hơn, với các phép chứng minh định lý. Lúc này cần video, với các thầy giáo giảng dạy có phong cách, cuốn hút, trình bày giản dị nhưng sáng sủa rõ ràng bắt mắt.
Giữa hai layer này sẽ là các bài toán mà sau này học sinh nào cũng sẽ phải động đến khi học lập trình, đó là các giải thuật. Có ti tỷ bài toán thực tế đã có giải thuật sẵn, có thể mua, hoặc bỏ công ra google về, chỉ cần trình bày lại ngắn gọn thành toán và học như… duolingo, không cần video. (Algorithm, trước thường dịch là thuật toán, gần đây được dịch là giải thuật, sát nghĩa hơn, nó có nghĩa là kỹ thuật/cách thực hiện các bước để giải bài toán.)
Có thể thêm layer giải trí, là lịch sử toán học. Tại sao hình học Gauss bắt đầu từ bài toán rất thực tế là đi đo ruộng, rồi nó trở thành hình học Riemann tháp ngà, rồi hình học Riemann tháp ngà ấy cuối cùng lại có ứng dụng trong Thuyết tương đối tổng quát của Einstein, nói đúng hơn nó là cốt lõi của thuyết này). Kiểu hoạt hình ngắn kể chuyện khoa học này thì thế giới, và cả VN, làm rất nhiều rồi, cái chính là để gắn vào việc dạy toán bài bản, thì nó cũng phải bài bản lớp lang bám theo.
Một layer nữa, có thể làm độc lập, là dạy logic. Do tiếng Việt có vấn đề (lỏng lẻo hơn so với tiếng Anh) nên không mang các bài logic tiếng Anh dịch ra tiếng Việt được mà phải soạn lại. Ngay cả ở tây, học sinh mà kém hoặc không học logic, khi học toán thường xuyên có các lập luận không chặt chẽ. Người Việt vốn giàu cảm tính nghèo lý tính sẽ cần môn này, dù ở mức đơn giản. Không thể có kỷ nguyên vươn mình với một dân tộc đầy cảm tính được, mỗi ông vươn một kiểu theo cảm tính của mình là bỏ mẹ ngay.
Làm một cái app toán như vậy có lẽ không khó lắm về mặt kỹ thuật. Nhưng về nội dung chắc cần rất nhiều thầy giáo toán đủ trẻ (để mới mẻ và sáng tạo) nhưng kinh nghiệm cũng đủ giàu có để nắm bắt các bài toán thực tiễn có ích cho giảng dạy. Mà phải làm đủ rộng từ lớp 5 đến đại học năm nhất, thì user mới đủ lớn để có lãi (vì app này chắc chỉ dùng được ở VN). Mà chắc cũng chẳng có lãi, thậm chí chẳng thu hồi nổi vốn, mà lãi chỉ đủ để nuôi bộ máy, phục vụ xã hội.
Một cái khó nữa, đó là vẫn phải cover đủ nội dung chương trình toán đang được dạy, và chất lượng của cái app này phải đủ để học sinh dùng nó để “học thêm”, nếu học nghiêm túc (và làm bài tập nghiêm túc) sẽ đủ sức làm các bài kiểm tra, bài thi,… trên trường mà không phải đi học thêm hoặc gia sư. Đây thực sự là việc khó.
Có một lý do mà các lớp dạy thêm gia sư, các trung tâm toán vẫn ăn nên làm gia, là vì: người Việt Nam không hiếu học tí nào (cái câu người Việt có truyền thống hiếu học là một câu hoàn toàn bốc phét); người Việt cũng cực kỳ kém ở khả năng tự học, cũng như rất kém tập trung nghe giảng. Rất nhiều chương trình dạy toán online, hoặc dùng video để dạy, hoàn toàn thất bại. Học sinh VN dù học tiếng Anh hay Toán thì đều phải đến lớp học thêm, có thầy cô đứng giảng, hỏi đáp, lên bảng, về nhà làm bài tập, đến lớp chữa bài.
Làm app dạy toán kiểu duolingo giúp học sinh (và người lớn muốn học lại toán) chỉ phải bỏ ra mỗi ngày một hai lần để học, mỗi lần vài phút (cho layer bề mặt), các bài giảng sâu hơn, cần video, thì video cũng chỉ được phép kéo dài 5 đến 7 phút là tối đa. Lâu hơn sẽ không ai xem cả. Học sinh VN dưới 15 tuổi không có năng lực tự tập trung quá 10 phút khi tự học (qua video). Đấy là video làm hấp dẫn, còn không hấp dẫn là nó tắt ngay.
Việc làm một app học thêm toán ở quy mô khổng lồ này tương đối khó, hoặc rất khó, nhưng còn dễ hơn thay sách các bộ sách giáo khoa hiện hành và hàng vạn giáo viên toán cả nước. Nhưng nếu không làm ra được một cách dạy toán hoàn toàn mới (a brave new world) mà vẫn chết gí với chương trình toán khô khan chán chết (và thực tế lại quá dễ và chưa đủ tốt) như hiện nay, thì sẽ chẳng có kỷ nguyên vươn mình nào cả. Vươn mình xong lại nằm xuống thôi, vì lấy quái đâu ra nhân lực chất lượng cao để làm những thứ như AI với chip bán dẫn.
Ký tên,
Thầy Lupin
Bộ môn Defence Against the Dark Arts
PS: Ảnh là bức tranh của anh Trần Trọng Vũ, đang có triển lãm cá nhân ở SG tại 357/2 Nguyễn Trọng Tuyển, Phường 1, Tân Bình
Nguyễn Phương Văn's Blog
- Nguyễn Phương Văn's profile
- 23 followers
