Thuyền cổ Bắc Ninh: Một ánh nhìn xa xăm
Đế quốc La Mã trở thành siêu cường thời cổ một phần lớn là do sở hữu quân đội hùng mạnh. Quân đội La Mã hùng mạnh nhờ một phần vào vũ khí công nghệ cao, nhưng rất thú vị: bí quyết công nghệ và kỹ thuật sản xuất có thể dễ dàng chuyển giao cho các xí nghiệp nhỏ ở các làng mạc, tức là các nhóm thợ tay nghề cao. Các nông dân Rome, kể cả phụ nữ, có thể tham gia rèn các mũi nhọn để gắn vào ngọn giáo, thuộc da và chế keo dán, làm dây bện dùng vào việc khâu, dán, ghép các tấm da vào khuôn gỗ tạo thành những tấm khiên nhẹ nhưng chắc chắn. Tương tự như vậy là chế tác các cánh cung lớn (ghép gỗ) và khoẻ, dây cung cực chắc. Nhờ sản xuất vũ khí được đưa xuống quy mô tư nhân nhỏ, thay vì phải làm trong công xưởng của đế chế, quân đội La Mã có vũ khi nhanh, tốt và rẻ để đưa vào sử dụng.
Những xưởng chế vũ khí nông dân này về sau chuyển biến thành kỹ thuật dân sự, nông dân làm vũ khí trở thành các nghệ nhân và thợ thủ công làm đồ da, đồ gỗ, làm thợ rèn, thợ khâu. Ở thời cổ ấy đem so với ngày nay thì các nghệ nhân là các nhà khoa học nắm bí quyết công nghệ, còn thợ lành nghề là các kỹ sư.
*
Luy Lâu trở thành trung tâm Phật giáo sau khi vai trò cảng thị thương mại và thủ đô hành chính (của châu Giao rộng lớn) dần mất vào tay Long Biên.
Khảo cổ của Nishimura năm 2014-2019 tìm thấy các khuôn và phễu đúc đồng (niên đại thế kỷ 4) cho thấy ở Luy Lâu có đúc đồng. Nhưng nghề đúc đồng ở Bắc Ninh không còn dấu vết. Đó là do khi nhà Lý dời đô về Thăng Long, các nghệ nhân đúc đồng, tức là các kỹ sư nắm công nghệ cao để sản xuất vũ khí thời đấy, bị kéo về Thăng Long.
Nhưng các làng nghề thủ công khác của họ không mất đi, và còn đến ngày nay. Một trong những ngón nghề xuất sắc nhất của Bắc ninh, trong nghề thủ công, là thêu rút sợi, nay chỉ còn dùng trong các sản phẩm thời trang cao cấp (và đang dần mai một). Nghề thêu này là một chút di sản còn sót lại của thuỷ xưởng nhà Lý, nơi nhưng nông dân khoẻ mạnh và khéo léo nhất của xứ Dâu Keo (Luy Lâu) Thuận Thành được tuyển về để khâu cánh buồm.
Chữ” buồm”, theo John Phan, là một từ Hán Việt sơ kỳ (Hán Việt cổ).
Từ “chài”, trong “xóm chài”, “vạn chài”, có thể là từ tiếng Phạn-Chàm “jala” có nghĩa là lưới (trong tiếng Việt vậy là có láy đẳng nghĩa chài-lưới.)
*
Đô thị Luy Lâu cổ thời Sĩ Nhiếp (thế kỷ 3) nằm ở một đồng bằng mini cực đẹp, kiểm soát toàn bộ đồng bằng sông Hồng và sông Thái Bình. Dựa vào hệ thống sông ngòi cổ dày đặc, từ Luy Lâu dễ đi đường sông lên phía Bắc, dễ đi ra biển phía Đông (rồi ngược lên Quảng Yên/Quảng Ninh, rồi Quảng Đông; hoặc men theo bờ biển mà xuống Chàm, hoặc đi về phía Nam Đảo).
Luy Lâu là một cái thành nhỏ, diện tích chắc chỉ bằng khu uỷ ban xã ở một huyện xa bây giờ. Phía bắc của thành là con sông Đuống chạy ngang (Tây Đông), bên cạnh thành là con sông Dâu (một con sông cổ) chạy dọc xuống (Bắc Nam). Thành ở bên tả ngạn. Dọc theo bờ sông, kéo dài khoảng hơn một cây số, là thành Luy Lâu, chùa Dâu, (nay còn chợ Dâu), đối diện bên kia sông (hữu ngạn) là Hà Mãn.
Mãn Xá (kẻ Mèn), khu phố thuộc Hà Mãn, là nơi phát tích Man Nương, mà truyền thuyết (chắc mới được bịa ra thời Lý, tức thế kỷ 11) kể một câu chuyện về tận thời Sĩ Nhiếp, trong đó Man Nương (nhờ qua tay một kẻ quyền thế là Sĩ Nhiếp) gián tiếp sinh ra Tứ Pháp và do đó trở thành Phật Mẫu. Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện được thờ ở các chùa Dâu, Đậu, Tướng, Dàn.
Nhà của Man Nương nay là chủa Tổ.
Gần đấy, là nơi người ta mới tìm ra con thuyền cổ Bắc Ninh (2025).
*
Khi Lê Hoàn, một ông tướng chẳng may chén được vợ vua (hoặc cố ý chén để dễ bề hợp thức hoá) và thành vua, ông đã làm hai việc quan trọng: cải cách quân đội (thành chính quy) và cách mạng công nghệ sản xuất (đắp đê trị thuỷ phục vụ nông nghiệp).
Nhưng phải đến thời nhà Lý, với ba ông vua đầu tiên lên ngôi khi đã là người lớn, có học, có tầm nhìn, có tư duy kiến quốc thì nước ta mới có thêm giáo dục, hành chính, ngoại thương, xây dựng hạ tầng (làm đường, đào kênh), quản lý dân số, phân bổ lao động, hợp pháp hoá tư hữu cho giới quý tộc và đánh thuế (cho phép quý tộc, tuỳ cấp, được quyền thu các loại thuế khác nhau.). Nhà Lý cũng có ý thức rất mạnh về vị thế quốc gia, họ đổi tên nước thành Đại Việt, xây dựng quân đội hùng mạnh để chinh phạt mở mang bờ cõi (Chàm), khống chế lân bang (Xiêng Khoảng), khuất phục các thủ lĩnh miền cao.
Ngoại thương cho đến trước thời Lý chỉ có đô thị cổ Luy Lâu là mạnh nhất, nơi các thuyền buôn từ phía Nam (Java, Thái, Chàm hoặc từ rất xa như La Mã) tụ đến. Qua thời Lý, thì Vân Đồn dần là thương cảng lớn, thay thế cho Luy Lâu. Người Việt ở Vân Đồn (Quảng Yên) biết đón tàu của người Chàm, lấy sản vật của họ buôn vào nội địa, hoặc mang sang Ung Châu bằng thuyền chở hàng.
Những cái thuyền chở hàng ấy, đóng ở Mãn Xá, bên bờ sông Dâu.
*
Dân Dâu Keo (Luy Lâu) từ sớm đã giao tiếp với dân đi biển gốc Nam Đảo và do đó quen thuộc với các tàu buồm hai đáy (hai thân, hai lòng, lưỡng phúc – twin hulled). Loại thuyền này rất quen thuộc với dân đi biển khắp các đảo Thái Bình Dương, mà ở gần ta nhất là vùng Nam Đảo.
Chạy bằng buồm, có thể đi ngược gió, khó lật dù đáy thuyền nông, nên loại thuyền hai đáy dễ dàng vượt biển. Do đáy nông, nó dễ dàng đi vào cửa biển, ngược các sông lớn, phụ lưu, chi lưu và vào đến tận sông Dâu (một con sông nhỏ) rồi cập bến Luy Lâu.
Người dân Dâu Keo bên bờ hữu sông Dâu, nơi xóm nhà Man Nương (quen thuộc với thân gỗ trôi sông chứa người giống như độc mộc phảng phất thông điệp qua truyền thuyết), dần học được nghề vá buồm, sửa thuyền và cuối cùng là có nghề đóng thuyền hoàn chỉnh.
Khi vua Lý mở thuỷ xưởng đóng thuyền xây dựng hải quân, Mãn Xá (kẻ Mèn) được chọn.
*
Thời Lê Hoàn hải quân Chàm đã đủ mạnh để theo Ngô Nhật Khánh kéo ra đến cửa Thần Phù để đánh vào Hoa Lư (năm 979). Mấy năm sau để chuẩn bị chinh phạt Chiêm Thành, Lê Hoàn mới cho đóng chiến thuyền. Thuỷ xưởng manh nha hình thành ở Luy Lâu gần quê gốc của tướng Lý Công Uẩn, về sau là vua đầu tiên nhà Lý.
Thời vua đầu nhà Lý là Lý Công Uẩn các cuộc chinh phạt ít dùng hải quân. Năm 1011 ông mang một đội quân lớn đi dẹp loạn ở Thanh Nghệ, chiến dịch kéo dài hai năm và rất tàn bạo. Lúc về ông mới dùng đến thuyền và gặp bão.
Đến vị vua thứ hai là Lý Phật Mã, ở giai đoạn cực thịnh 1042-1044 (Minh Đạo), nền kinh tế của ông vua này mới đủ sức xây dựng hạm đội biển có thể triển khai quân xa Thăng Long cả ngàn cây số. Đây là giai đoạn thuỷ xưởng bên sông Dâu được đầu tư mạnh mẽ nhất. Chiến dịch bình Chiêm năm 1044 thì hải quân nhà Lý đã tương đối mạnh, đủ chở đội quân đủ lớn đi từ cửa biển Đại Ác đến Tư Dung, dàn quân lên bộ tràn vào giết ba chục ngàn người Chàm, bắt về năm ngàn người.
Đến năm 1069 thì hải quân của ông vua thứ ba là Lý Nhật Tôn có tới 200 thuyền đi đánh Chiêm, kéo dài mấy tháng, phá hàng ngàn căn nhà của họ, bắt về được năm vạn người (lúc về chắc phải dùng thêm thuyền chiếm được của Chàm). Tướng chỉ huy của chiến dịch này là Lý Thường Kiệt. Đến năm 1075 Lý Thường Kiệt dùng chính lực lượng hải quân này đánh đến tận châu Ung (Nam Ninh).
*
Thuỷ xưởng Mãn Xá (kẻ Kèn) không chỉ đóng tàu chiến mà còn đóng tàu riêng cho các gia đình quý tộc. Họ dùng để đi thu thuế và đi lại như đại gia ở Vn đầu thế kỷ 20 tậu xe hơi đi thu tô.
Đến thời vua thứ tư trở đi, đất nước kinh tế phát triển, xã hội thanh bình, giới quý tộc bắt đầu giàu có đua nhau đóng thuyền riêng (một thú vui xa xỉ hồi đó). Thuyền để đi công tác đặc biệt, liên lạc giữa các phe phái cát cứ vào cuối thời Lý (chính trị suy tàn, thái tử Lý Sảm tự chiếm đất quy tụ các hào trưởng địa phương lập triều đình).
Không có thuyền riêng nên tướng Phạm Du, phải đợi người đưa thuyền đến đón đi đàm phán , đợi lâu nên tranh thủ giao hợp với công chúa Thiên Cực, lỡ thuyền nên bị bắt giết (1209).
Phe bên kia có Tô Trung Từ về sau thống nhất được lực lượng, lại dính phải công chúa Thiên Cực, đang giao hợp với cô này thì bị chồng bắt tại trận giết luôn (1211). Gia đình Tô Trung Từ biết là toang cả nhà, may mà có thuyền nên trốn được.
*
Phạm Du là tướng, tham nhũng rất mạnh tay, nhưng keo bo, toàn đi nhờ thuyền người khác, mãi mới chi tiền đặt thuỷ xưởng làm thuyền riêng, đang làm dở thì chết.
Không ai chi tiền làm nốt nên con thuyền hai lòng của Phạm Du dở dang nằm bên bờ sông Dâu. Năm 1214 đất nước loạn lạc, các sứ quân đánh lẫn nhau, Trần Tự Khánh đốt Thăng Long đưa vua trốn xuống Hà Nam. Khu công nghiệp và thương mại Luy Lâu suy tàn. Vùng đất ven sông Dâu này dần bị bồi lấp. Thuỷ xưởng trở thành xưởng gốm, rồi thành chợ, rồi thành khu dân cư. Con sông cổ cũng chết mòn.
*
Con thuyền Phạm Du vẫn nằm đấy. Cho đến gần đây nó bất ngờ hiện ra như một chỉ dấu mong manh cho ta biết vùng đất này xưa đã từng có một thuỷ xưởng đóng hạm đội Lý Thường Kiệt.










Nguyễn Phương Văn's Blog
- Nguyễn Phương Văn's profile
- 23 followers
