Tiếng gà gáy sáng làm thức tỉnh Peter

(Hay ai là người thầy tư tưởng của Peter Thiel)

Có một câu nói đùa, rằng các phong trào trí thức tác động đến chính trị ở phương Tây đều bắt nguồn từ các nhà tư tưởng Pháp. Phong trào Phản Cách mạng mà Peter Thiel, Curtis Yarvin và J.D. Vance đang tiến hành ở Hoa Kỳ liệu có bắt nguồn từ một nhà tư tưởng Pháp nào không. 

Câu trả lời là có. Tên ông là René Girard. Thiel gọi ông là nhà tư tưởng và là nhà bác học Kitô Giáo. Phó tổng thống JD Vance gọi ông là triết gia. Còn tờ Financial Times viết một bài về ông, tên bài là “Làm sao một nhà phê bình văn học người Pháp chẳng mấy ai biết đến lại trở thành con chiên đầu đàn dẫn dắt cánh hữu Hoa Kỳ.”

Thiel nói nếu Nietzsche là triết gia thế kỷ 19 có dấu ấn lớn ở thế kỷ 20 thì Girard sẽ là triết gia thế kỷ 20 có dấu ấn lớn ở thế kỷ 21. Vào năm 2100 (tức thế kỷ 22), khi người ta lập danh sách các triết gia của thế kỷ 20, 21, Girard sẽ là nhà tư tưởng nổi bật nhất thời đại chúng ta. Còn nhà kinh tế học Tyler Cowen (tác giả của ít nhất một cuốn sách đã được dịch in ở VN) phát biểu rằng nếu có một bản danh sách 20 nhà tư tưởng nổi bật ở nửa cuối thế kỷ 20, ông sẽ chọn Girard (và Foucault) vào danh sách.

René Girard được bầu vào Viện hàn lâm Pháp (Académie Française) năm 2005. Ông qua đời sau đó 10 năm, tức năm 2015.

*

Tờ Financial Times, trong bài viết về Girard có một câu tô đậm: “Trong lúc chủ nghĩa hậu cấu trúc (post-structuralism) lan khắp các trường đại học Hoa Kỳ thì Girard lại theo đuổi những ẩn ý của những ham muốn hình thành nhờ bắt chước (mimetic desire). 

Bài báo kể lại hội nghị chuyên đề “The Languages of Criticism and the Sciences of Man” về cấu trúc luận (structuralism) năm 1966 ở đại học Johns Hopkins. Girard và đồng nghiệpmời một nhóm các nhà tư tưởng lớn người Pháp, trong đó có Michel Foucault, Jacques Lacan và  Claude Lévi-Strauss. Sau khi Lévi-Strauss và Foucault rút lui, Girard mời triết gia trẻ chưa mấy nổi tiếng: Jacques Derrida. Tại hội thảo, Derrida tấn công những giả định cơ bản của chủ nghĩa cấu trúc, xóa bỏ những phân biệt nhị nguyên để phơi bày những lực xã hội đã duy trì chúng. Những người ở phe bảo thủ cho rằng tư tưởng của Derrida (“chủ nghĩa hậu hiện đại”) là nguồn gốc của những tệ nạn trong xã hội hiện đại. 

Girard sau này vẫn đã nói đùa rằng, bằng cách mời Derrida, ông và những người tổ chức hội nghị đã mang dịch bệnh cài vào nước Mỹ.

*

Girard nói đại ý rằng: “Khi chúng ta gặp vấn đề, gặp khó khăn, và bất đồng, chúng ta có xu hướng tìm một ai đó để đổ lỗi, đây là hiện tượng được biết đến rộng rãi với tên gọi “scapegoat”. Loài người chém giết lẫn nhau không phải vì họ khác biệt mà vì họ quá giống nhau. Có một nghịch lý, đó là con người cùng ham muốn một thứ, thì thứ đó sẽ chia rẽ con người, nhưng con người cùng tấn công một nhân vật, thì nhân vật đó lại đoàn kết con người.”  

Girard nhìn được tận sâu thẳm dưới đáy vấn đề xung đột của loài người, đó là họ có ham muốn giống nhau, các ham muốn có được là vì đi bắt chước nhau, chứ không phải là ham muốn thực, từ thâm tâm thực, từ trí óc thực, của mỗi con người. 

Thiel nói lần theo sợi chỉ tư tưởng của Girard sẽ giúp ta biến thế thế giới này thành thứ có ý nghĩa. 

*

Rene Girard đúng là người Pháp, nhưng nghiên cứu và giảng dạy đại học ở Mỹ. Ở Mỹ nhưng lại có ba cuốn sách xuất bản và gây tiếng vang ở Paris hồi những năm 1970. Ở Mỹ tên tuổi của ông không lững lẫy như Foucault, Lacan, Derida, thậm chí khá mờ nhạt. Ông cũng không hẳn là nhà phê bình văn học như tờ FT giật tít. Bù lại, tên tuổi của ông được biết đến khá nhiều trong giới thần học và nhân học. Các lý thuyết quan trọng của ông được xếp vào ngành thần học và “nhân học triết” (philosophical anthropology). 

Ngành nhân học (anthropology) tự nó liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, từ phân tâm học, lịch sử, huyền thoại, văn hoá dân gian đến các tục lệ cổ. Sự nghiệp học thuật của Girard lan man y như vậy. 

Sinh ra (năm 1923) và lớn lên ở Avignon, một nơi mà ai đọc Daudet đều biết với các vi giáo hoàng bỏ Vatican về sống ở đây. Bố Girard làm curator cho Cung Giáo hoàng (Palais des Papes), nhưng mãi đến năm 1959 ông mới vào đạo Công giáo. Là sinh viên ở Paris thời Đức chiếm đóng, Girard bỏ qua Mỹ học tiếp, làm PhD Lịch sử, rồi xin được một chân giảng viên khoa Pháp ở một đại học. Ở đây ông phải dạy văn học Pháp và bắt đầu sự nghiệp nghiên cứu của mình từ vị thế một giảng viên và góc nhìn của nhà phê bình văn học. 

*

Girard ví von các tác phẩm  lớn của các tác giả lớn như những quả núi lớn, ngăn cách nhau bởi các thung mênh mông, chẳng có gì kết nối chúng với nhau. Nhưng, hẳn phải có gì đó chung, ẩn chứa ở tầng sâu nào đó kết nối chúng với nhau chứ – ông tự hỏi.

Máy Boltzmann (Boltzmann machine), một cấu phần nền tảng của học máy (machine learning), thường được dùng để nhận dạng hình ảnh và phân tích ngôn ngữ. Nó có khả năng phát hiện ra các khuôn mẫu (pattern) chung giữa các hình ảnh và đúc rút ra các đường nét đặc trưng (feature) của các hình mẫu rồi so sánh ảnh chưa được nhận dạng với những hình ảnh mà nó đã biết. 

Lý thuyết Phạm Trù, một lý thuyết toán hiện đại, cũng nhìn vào các lĩnh vực toán khác nhau như các quả núi lớn tách biệt (hay như các lục địa ngăn cách bởi các đại dương) để cố gắng tìm ra, dựa vào insight của các nhà toán học (như Penrose khẳng định), các kết cấu (structure) chung, các khuôn mẫu tương đồng ẩn mình dưới một nền tảng chung của các các ngành toán học. 

Lý thuyết phê bình văn học của Girard dựa vào năng khiếu của người phê bình để nhận ra các cấu trúc, các khuôn mẫu chung ẩn dưới các thung lũng và luồn dưới cân các đỉnh núi văn học. Rồi ông phát triển nó thêm, đào sâu vào tài nguyên văn bản là các sách thánh và sách Tin Mừng Nhất Lãm (Tân Ước), dựa vào các huyền thoại, dựa vào phân tâm học và dựa vào lịch sử. Từ đó tìm ra lý thuyết riêng của mình, dù không được coi là nguyên gốc (origin), nhưng vẫn khá độc đáo và giải quyết được những vấn đề lớn của nhân loại: ham muốn, cạnh tranh, ghen tị, hận thù, đổ lỗi buộc tội  và bạo lực ở cấp độ cộng đồng (public violence).

Girard từng làm kinh ngạc sinh viên khi ông mang đến giảng đường một cuốn sách chưa đọc và phân tích nó (trúng phóc) bằng lý thuyết khuôn mẫu mà ông tìm tòi và phát hiện ra những tác phẩm kinh điển mà ông nghiên cứu. 

*

Nếu nhìn vào tên các công ty mà đám tỷ phú công nghệ bạn hữu (tech bros) thành lập, ta sẽ thấy Palantir của Thiel, hay Erebor của Lonsdale (đàn em Thiel, đồng sáng lập Palantỉ) là hai cái tên xuất phát từ tác phẩm của Tolkien (Chúa Nhẫn). Tên công ty Tlön của Yarvin lấy từ tên truyện ngắn Tlön, Uqbar, Orbis Tertius của Borge (ở Việt Nam có bản dịch của An Lý).  Yarvin cũng phân tích các hình thái và vận động xã hội thông qua “dark elf”, “high elves”, “hobbits” (lần lượt ứng với Yarvin, giới tinh hoa bang xanh và giới bảo thủ bang đỏ) là các giống người trong Chúa Nhẫn (The Lord of the Rings) của Tolkien.

*

Karl Marx nói rằng chủ nghĩa tư bản sẽ phải thử hết các hình thái mà nó có thể tồn tại, để đi đến hình thái cuối cùng. Chủ nghĩa xã hội cũng vậy. Nó vật lộn và thử qua mọi hình thái, từ nhà nước Xô Viết ở Nga đến các kiểu xã hội chủ nghĩa Bắc Âu và cả Hoa Kỳ thời Obama-Biden. Ở Tàu, nó xoay xở mọi hình thức để tồn tại và phát triển. Đọc Lý Chí Thoả ta sẽ thấy Mao thúc đẩy mọi biến động xã hội, phá huỷ căn cốt xã hội cũ để dần xoay trục sang Mỹ và Tây Âu, khi mọi thứ chín muồi và mình không còn sống được nữa, Mao gọi Đặng về và trao cho ngọn đuốc. Đặng đưa Trung Quốc hiện đại trở thành nước Tư Bản-Nhà Nước (State Capitalism). Chủ nghĩa tư bản Nhà nước này, không có gì mới mẻ, chính là cái mà Lenin mong muốn thông qua NEP.

Năm 1921 Lê Nin chỉ ra đường lối Kinh tế Mới (NEP New Economic Policy): Cần một hệ thống kinh tế chứa đựng kinh tế thị trường, chủ nghĩa tư bản, nhưng quy phục sự kiểm soát của nhà nước, và các công ty quốc doanh vẫn phải hoạt động trên cơ sở vì lợi nhuận.

Chủ nghĩa tư bản Hoa Kỳ cũng vật lộn tiến hoá theo thời gian. Hiện Mỹ và phương Tây đang và bị định hướng quay về với chủ nghĩa phong kiến mới, gọi là phong kiến công nghệ. Phong kiến cổ điển là các quý tộc sở hữu ruộng đất, cho nông nô canh tác và hưởng tô. Dần dần một số lớn mạnh thành lãnh chúa, có lâu đài, có nền kinh tế tự cung tự cấp. Rồi thành các quân vương có lãnh địa và quân đội. Các quân vương dần dần sẽ tiến đến chỗ chọn ra một quân vương mạnh nhất làm vua. Các lãnh chúa và quân vương xoay xở cân bằng quyền lực và lợi ích của mình với chính sách tô thuế của ông vua (siêu quân vương kia) cho đến ngày ông ta trở thành Hoàng Đế (cực mạnh, thâu tóm, cai trị tất cả, như triều đình Pháp của ông vua Louis). Các lãnh chúa công nghệ, các tài phiệt phố Wall đã chuyển mình thành các quân vương, họ bắt đầu chống lại được chính quyền Liên Bang và rồi họ sẽ tìm cách dựng ông Vua đại diện cho họ (Trump Vance) và đưa thể chế dân chủ Mỹ thành một nền quân chủ phong kiến công nghệ. (Xem thêm: Ai đã giác ngộ và huấn luyện Peter Thiel, Musk và phó tổng thống JD Vance? Peter Thiel và các hệ phái tư tưởng ở Silicon Valley và Bay Area, và Mắc kẹt kiểu Peter Thiel.)

Nhưng hiện tại, cả Mỹ và Tàu đều ở hai thái cực mà lại gần nhau, họ đều là  State Capitalism. Nên chắc chắn, theo lý thuyết của Girard, họ sẽ xung đột. Con người ghét nhau vì họ giống nhau, Girard nói vậy.

Trong “Battling to the End” (xuất bản năm 2009), một cuốn sách phân tích các ý tưởng của binh pháp gia Carl von Clausewitz, Girard cho rằng xung đột địa chính trị là kết quả của ham muốn bắt chước chứ không phải là hậu quả của va chạm giữa các nền văn minh (“Clash of Civilizations” học thuyết của nhà khoa học chính trị Samuel P. Huntington). Từ 2009 ông đã viết  “Giờ đây, ai cũng biết cuộc xung đột sắp xảy ra giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, chẳng hạn, không liên quan gì đến ‘va chạm giữa các nền văn minh’, bất chấp những lý thuyết một vài ai đó cứ cố gắng nói với chúng ta. Chúng ta luôn cố gắng tìm ra “sự khác biệt” trong khi thực tế không có gì cả. Trên thực tế, cuộc ganh đua nằm giữa hai hình thái chủ nghĩa tư bản đang ngày càng trở nên giống nhau”. Xung đột giữa hai cường quốc ngày càng giống nhau, có thể sẽ dẫn đến xoá sổ thế giới. Đó là lập luận “Tận thế” rất có ảnh hưởng của Girard. 

*

Tháng Bảy năm 2024, tức là mới chỉ một năm trước đây, tờ New Yorker còn lên một bài (hơi thô sơ) thắc mắc về tôn giáo cực đoan của ứng viên phó tổng thống J.D. Vance. Vance mới  vào đạo Công giáo được vài năm. Bài báo có tên “Tôn giáo cực đoan của J.D. Vance”. Một cách ý nhị, để giải thích cho chữ “cực đoan”, bài báo cũng ý tứ nói Biden cũng Công giáo, nhưng mềm mại, khác với đám Công giáo của Reagan ở Nhà Trắng rất chống Cộng, và  khác đám thẩm phán Công giáo bảo thủ ngồi trong Toà án tối cao đang dang tay đón nhận J.D.Vance.

Để giải thích việc Vance từ một người vô thần cho đến khi là sinh viên đại học, bỗng thành một Kitô Hữu, tờ New Yorker viện dẫn vào một bài viết duy nhất, của chính Vance, đăng trên The Lamp (Con Chiên). Bài viết này của Vance cực kỳ độc đáo, nó có tên “Tại sao tôi gia nhập Kháng chiến – Về bà tôi và việc tôi trở thành Kitô hữu.” 

Có lần, Vance nghe Thiel – lúc này Thiel đã trưởng thành – đến Trường Luật của Đại học Yale nói chuyện. Thiel, một người học luật ở Stanford, kinh doanh thành đạt, lại chỉ trích văn hoá tinh hoa của ngành luật. “Các luật sư cạnh tranh đến chết trong cuộc đua nghề nghiệp, từ luật sư ở hãng luật cho đến khi làm parner cũng của cái hãng luật ấy. Cạnh tranh cho đến chết từ chân luật sư giấy tờ ở toà cấp thấp, cho đến khi thành các luật sư ở toà cao”. Thiel đã mở mắt cho Vance, người sau này sau vài năm đi làm cho các hãng luật danh tiếng và hiểu thế nào là “cạnh tranh đến chết” đã chuyển qua làm thuê cho quỹ đầu tư mạo hiểm của Thiel. 

Vance nói Thiel cực kỳ thông minh, nhưng lại là một Kitô Hữu (người theo đạo Kitô). Với Vance, người vô thần mới thông minh, bọn có đạo thì toàn lũ đần. Nên Vance rất ngạc nhiên và đi  tìm hiểu thêm. Từ đó anh tìm ra một triết gia, sư phụ của Thiel, giáo sư Rene Girard, mà Vance gọi là “triết gia”. 

Một trong các lý thuyết của Girard gây ảnh hưởng sâu sắc lên Thiel và Vance là lý thuyết về ham muốn. Thường thì ta quan niệm, theo trực giác, rằng ham muốn có gốc rễ sâu từ trong tâm khảm mỗi con người, có từ trong vô thức, tiềm thức. Nhưng thuyết của Girard thì khác. Ham muốn mà bản năng như vậy là ở loài vật. Còn ham muốn của chúng ta là con người. Ham muốn của con người chẳng qua là con người bắt chước nhau. Girard tìm ra cấu trúc tam giác Object, Subject và Model.  Giữa chủ thể (người thèm muốn) và khách thể (cái được ham muốn) là cấu trúc chung cho ham muốn của con người.

Nhân vật của Cervantes (Don Quixote) có ham muốn thành hiệp sĩ là từ các mẫu hình trong sách kiếm hiệp mà anh này đọc. Nhân vật trong “Bà Bovary” của Flaubert có hình mẫu từ các tiểu thuyết bình dân. Tương tự vậy là nhân vật quý tộc trẻ trong “Đỏ và Đen” của Stendhal Họ may mắn có ham muốn từ bắt chước ở những nhân vật hư cấu, hoặc nhân vật có thật nhưng xa họ. Nếu ham muốn của ta là bắt chước từ những người xung quanh, như anh hàng xóm, bạn cùng lớp thì sẽ gây ra cạnh tranh. Ta cũng bắt chước anh hàng xóm mà thích cô bé cuối xóm, thì sẽ xảy ra vòng xoáy cạnh tranh, lúc đầu ta bắt chước anh hàng xóm, rồi anh hàng xóm thấy ta cũng thích cô bé cuối xóm, anh sẽ lại bắt chước ta. 

Con người có ham muốn vì bắt trước qua lại lẫn nhau, trong cái cấu trúc tam giác chung Chủ thể Khách Thể và Hình Mẫu. Nhưng khách thể không chỉ là món đồ chơi, là tiền bạc, là cô gái hàng xóm, mà còn là sự công nhận, địa vị và quyền lực. Tất cả sẽ dẫn đến cuộc cạnh tranh, rồi ganh đua quyết liệt. Nó leo thang, trở thành ghen tỵ, rồi thành cừu địch, những cừu địch do bắt trước (mimetic rivalry). Không chỉ ở cấp độ con người, mà ở tập thể, xã hội, dân tộc và quốc gia.  

*

Vance bị lý thuyết “ham muốn do bắt chước – mimetic desire” này cuốn hút, và anh hiểu rằng cuộc cạnh tranh sát ván ở trường Luật Yale, ở các hãng luật, ở khắp nơi trong chế độ “tinh anh trị” (meritocracy) đều là do “mimetic desire”. Và mọi người sẽ dần nhìn nhau như kẻ thù, dù thực ra họ chỉ bắt chước lẫn nhau. Trong khi đó Tin Mừng và Công Giáo dạy yêu thương và nhường nhịn lẫn nhau. Đó sẽ là một hướng đi, một con đường cho Kháng chiến, chống lại văn hoá cạnh tranh khốc liệt ở các lĩnh vực chuyên môn (professional competition). Vance vào đạo Công giáo năm 2019.  Ra trường anh tham gia hết công ty luật elite này đến công ty elite khác, trải qua các cuộc cạnh tranh sát ván, hiểu được thế nào là ““mimetic rivalry” thực chất chỉ là bắt chước nhau. Anh thay đổi dần, chuyển đến Silicon Valley làm cho Thiel, viết báo, viết sách và cuối cùng được Thiel cấp tiền để chạy đua thành công vào Thượng Viện.

Trích bài viết của J.D. Vance trên The Lamp.

“Cũng quãng thời gian đó, tôi có dự một buổi nói chuyện ở trường luật của chúng tôi với diễn giả là Peter Thiel. Đó là năm 2011, còn Thiel là một nhà đầu tư mạo hiểm nổi tiếng nhưng người thường chẳng mấy ai biết đến. 

Anh ấy nói từ suy tư cá nhân: anh lập luận rằng chúng tôi ngày càng bị cuốn vào những cuộc cạnh tranh nghề nghiệp khốc liệt. Chúng tôi sẽ cạnh tranh để được làm thư ký tòa phúc thẩm, rồi đến thư ký Tòa án Tối cao. Chúng tôi sẽ cạnh tranh để có việc làm ở các hãng luật hàng đầu, rồi sau đó được lên làm partner tại chính những hãng luật đó. Anh ấy nói rằng, đến một lúc công việc của chúng tôi tốn nhiều giờ hơn, trở nên xa lánh đồng nghiệp, rồi thì danh tiếng không thể bù đắp được sự vô nghĩa của công việc. Anh cũng lập luận rằng Thung lũng Silicon của anh ấy cũng dành quá ít thời gian để tìm ra những đột phá công nghệ giúp cuộc sống tốt đẹp hơn – những đột phá trong lĩnh vực sinh học, năng lượng và giao thông – nhưng lại dành quá nhiều thời gian cho những thứ như phần mềm và điện thoại di động. Giờ đây, ai cũng có thể tweet cho nhau, hoặc đăng ảnh lên Facebook, nhưng việc di chuyển đến châu Âu lại mất nhiều thời gian hơn, chúng ta chưa có cách chữa trị các bệnh nan y như suy giảm nhận thức và chứng mất trí nhớ, còn việc sử dụng năng lượng ngày càng làm ô nhiễm hành tinh. Anh ấy nhận ra hai xu hướng – giới chuyên gia tinh hoa bị mắc kẹt trong những công việc cạnh tranh khốc liệt, và sự trì trệ công nghệ của xã hội – có mối liên hệ với nhau. Nếu đổi mới công nghệ thực sự thúc đẩy sự thịnh vượng, giới tinh hoa của chúng ta sẽ không cảm thấy ngày càng phải cạnh tranh với nhau nhiều hơn trong khi kết quả xuất sắc mà cuộc cạnh tranh ấy đạt được ngày càng giảm.

Bài nói chuyện của Peter đến nay vẫn là khoảnh khắc quan trọng nhất quãng thời gian tôi ở Trường Luật Đại học Yale. Ông ấy đã diễn đạt một cảm giác mà cho đến lúc đó trong tôi vẫn chưa hình thành: rằng tôi bị ám ảnh bởi thành tích trong công việc – đó không phải là mục đích của một điều gì đó có ý nghĩa, mà chỉ là để chiến thắng trong một cuộc thi xã hội.”

(J.D. Vance – Tại sao tôi gia nhập Kháng chiến – Dịch bằng Gúc)

*

Như ta thấy, Peter Thiel trở thành một nhà đầu tư tiên tri, tức là những công ty anh bỏ tiền vào không chỉ thành công mà còn mở ra một ngành mới, ở đó những công ty “của anh” và nhân sự cao cấp “của anh” không phải cạnh tranh đến chết để tạo ra rất ít thành công.

Thiel kể rằng (lười tra lại audio) anh gặp Girard cuối những năm 80 đầu những năm 90, khi anh là sinh viên bậc đại học Stanford, còn Girard dạy triết. Hai người tham gia các nhóm đọc sách và nói chuyện với nhau nhiều. Đại khái chính là một kiểu mentor về tư tưởng. Nhưng phải vài năm sau Thiel mới hiểu hết những ý tưởng của Girard và nó như là tia sét đánh vào não anh. Thiel chuyển trạng thái nhận thức và trở thành một trong những nhà đầu tư mạo hiểm thành công nhất, và là nhà tư tưởng có sức ảnh hướng nhất, ở Thung lũng Silicon.

*

Tháng Năm năm 2025, tức là sau bài báo về tôn giáo của Vance chưa đến một năm còn Trump Vance đã đắc cử, tờ New Yorker có bài viết “Tại sao các ý tưởng tốt lại lặng lẽ chết yểu, còn các ý tưởng tồi lại go viral”. Đây là bài review cho một cuốn sách tên là “Antimemetics: Why Some Ideas Resist Spreading”. Trong bài đưa ra nhiều cách giải thích, trong đó nhắc đến cách giải thích của Thiel sử dụng lý thuyết của Girard. Nhưng lúc này, khác với một năm trước còn phải giải thích Girard là ai, tờ báo nói đại ý là Thiel diễn giải và truyền bá tư tưởng của Girard (cho đám cánh hữu) nhiều đến mức cạn kiệt. 

Thiel cho rằng internet không phải là kênh để con người lên đó tìm các bằng chứng, dữ kiện để xây dựng nên thế giới quan của riêng mình. Ngược lại, con người lên internet để tìm thế giới quan nào đó trùng khớp với mong muốn (ham muốn) của họ. Mạng xã hội còn góp phần thổi phồng những thứ này thêm. Ham muốn của con người lại là do bắt chước lẫn nhau. Bắt chước ham muốn có mặt tốt, giúp chúng ta học tập, thi đua, tiến bộ. Giúp con người có ham muốn giống nhau tụ lại thành các công đồng. Mọi người gắn kết, bằng hữu, vì có chung mong muốn. Nhưng sự ghen tỵ, ganh đua,  cừu địch xuất hiện và tích luỹ dần. Không khí nồng nặc mùi thuốc súng, và phải có cái gì đó bùng nổ. Đây là lúc phần cốt lõi trong lý thuyết của Girard được sử dụng để giải thích cơ chế xảy ra khủng hoảng (crisis) ở cộng đồng, xã hội và cơ chế giải quyết cơn khủng hoảng ấy. Phần cốt lõi này có tên gọi “cơ chế tìm vật thế thần – scapegoat mechanism.” Mỗi khi xã hội, bộ tộc, cộng đồng rơi vào chia rẽ do ganh đua và cừu địch, sẽ có những cá thể “khác biệt” với số đông sẽ bị chọn ra để làm vật tế thần, bạo lực tập thể sẽ dồn vào con dê tế thần này và sau đó khủng hoảng sẽ tự tắt. Số đông muốn biết ai đứng về phía mình, thuộc về mình, bằng cách chọn ra một nhân vật để tế thần. Những người cùng nhau đổ lỗi buộc tội và sử dụng bạo lực lên nhân vật bị tế thần ấy, sẽ cùng nhau đứng chung vào một nhóm. Bạo lực sinh ra không phải do khác biệt, nó sinh ra bởi những người có ham muốn giống nhau. Phương thức kiểm soát bạo lực chính là chọn một nạn nhân, đoàn kết với nhau và đổ lỗi cho nạn nhân này. Cơ chế đổ lỗi và bạo lực kèm theo sẽ giải quyết khủng hoảng và cứu vãn hoà bình cho cộng đồng (xã hội, dân tộc, quốc gia). 

Trong phiên bản hiện đại, ở cánh hữu, đổ tội cho con dê tế thần (scapegoating) là cơn cuồng bài ngoại, ở cánh tả đó là kiểm duyệt và văn hoá huỷ bỏ (cancel culture).

Các bài phê bình và đổ tội cho Big Tech cũng là một dạng scapegoating, và chỉ có chất lượng tầm thường nếu thấu hiểu Girard. Cho nên Palantir của Thiel là công ty bị căm ghét từ trước khi nổi tiếng mà cuối cùng nó vẫn cứ nổi tiếng và thành công là vì Thiel hiểu sớm được tư tưởng và lý thuyết của Girard. (Wall Street Journal có bài “Palantir: Tay chơi từ bị ruồng bỏ đến quyền lực”)

Như vậy, Thiel từ trẻ đã thấu hiểu, theo cách của Girard về cơn cuồng của đám đông (madness of crowds), và thấy rằng nó khác hẳn trí khôn của đám đông (wisdom of crowds) của các nhà tư tưởng khác, như Malcolm Gladwell. Anh cũng hiểu cơ chế vận hành của các hội nhóm, cộng đồng trên internet. Hiểu tác dụng của mạng xã hội (từ lúc nó chưa ra đời). Hiểu cơ chế cạnh tranh đến chết và cách để vượt lên khỏi sự cạnh tranh ấy bằng cách đầu tư mạo hiểm vào các công ty mở ra các lĩnh vực mới mà ở đó nó không phải ganh đua với bất cứ ai. Và nếu biết vận dụng, những influencer (KOL, KOC) sẽ là cái máy tạo ra các ham muốn được bắt chước, và được internet và mạng xã hội khuếch đại, thổi bùng lên. Biết được lúc nào thông tin sẽ bùng nổ, và biết lúc nào nó tắt.  Biết cách vận dụng tư duy của Girard vào internet và mobile sẽ tạo ra phong trào rộng lớn từ các nhóm nhỏ. Và cuối cùng có thể tạo ra cả một cuộc cách mạng Phản cách mạng để đưa Trump và Vance vào Nhà Trắng. 

*

Rene Girard cho rằng cơ chế tìm nạn nhân (vô tội) để đổ lỗi, buộc tội và xả những cơn bạo lực lên nạn nhân là một trong rất nhiều thứ ẩn giấu có sẵn từ khi thế gian này được tạo lập (hidden since the foundation of the world.) Hay nói cách khác bạo lực, trả thù, đổ tội là vấn để kinh niên và có sẵn từ khi có loài người, nó không phải là vấn đề của sai lầm lý trí hay mất kiểm soát tâm lý. Ta có thể dùng lý thuyết này giải thích vô số vấn đề của VN cận đại và đương đại. (Cowen còn cho rằng xã hội học nên tiếp cận từ quan điểm nhân học trước khi tiếp cận từ kinh tế học.

Girard viết: “Chẳng có gì, hoặc gần như chẳng có gì, trong mọi hành vi của con người là không có được từ học hỏi, và mọi sự học hỏi đều dựa trên sự bắt chước”. 

Sự bắt chước giúp chúng ta biết cách học tập, nhưng nó dẫn đến leo thang trong cạnh tranh, và rồi là ganh đua và kết thúc là bạo lực. Tôn giáo phát triển (từ tín ngưỡng) như một phương tiện để khu biệt sự ganh đua bằng cách phóng chiếu bạo lực cộng đồng lên một nạn nhân được chọn tùy tiện (tức là vật tế thần). 

Trích từ bài viết của Vance trên The Lamp:

“Tư tưởng của Girard phong phú đến mức bất kỳ nỗ lực tóm tắt các ý tưởng này sẽ thành ra một sự thất bại trong việc đánh giá con người ông. Lý thuyết về ham muốn do bắt chước nhau – rằng chúng ta có xu hướng ganh đua nhau vì những thứ mà người khác muốn – nói ra một cách trực tiếp những áp lực mà tôi từng trải qua khi học đại học Yale. Nhưng lý thuyết  của ông về vật tế thần – và những gì nó tiết lộ về Kitô giáo – mới khiến tôi xem xét lại đức tin của mình.

Một trong những hiểu biết cốt lõi của Girard đó là các nền văn minh nhân loại thường, thậm chí luôn luôn, được xây dựng trên một “huyền thoại về vật tế thần” – một hành động bạo lực chống lại một người được cho là gây hại cho cộng đồng, được truyền lại như một dạng chuyện kể về nguồn gốc cộng đồng.

Đối với Girard, các chuyện kể về Đức Kitô  chứa đựng một sự khác biệt quan trọng—một sự khác biệt hé lộ cho nhân loại biết được rằng có điều gì đó “ẩn giấu từ khi tạo dựng thế giới”. Trong câu chuyện Kitô giáo [Tin Mừng], người chịu tội cuối cùng không làm hại nền văn minh; mà chính nền văn minh đã làm hại ông ấy [tức Chúa Jesus Kitô]. Nạn nhân của sự cuồng loạn của đám đông, giống như Chúa Kitô từng là nạn nhân, là người vô cùng quyền năng—có thể tự ngăn chặn việc mình bị sát hại—và người ấy hoàn toàn vô tội—không đáng phải chịu cơn thịnh nộ và bạo lực của đám đông. Trong Tin Mừng, chúng ta thấy những nỗ lực đổ tội và đổ lỗi cho chính sự bất lực của mình lên nạn nhân vì bản chất của đám đông: một khiếm khuyết về đạo đức, phóng chiếu khiếm khuyết này một cách bạo lực lên người khác. Việc Chúa Kitô bị làm vật tế thần đã mạc khải cho chúng ta thấy sự bất toàn của mình và buộc chúng ta phải nhìn vào những thiếu sót của chính mình thay vì đổ lỗi cho những nạn nhân được xã hội lựa chọn.”

(J.D. Vance – Tại sao tôi gia nhập Kháng chiến – Dịch bằng Gúc)

*

Nhân học của Girard rất đặc biệt. Nó được ông pha trộn huyền thoại, tâm lý học, huyền học, ngộ giáo, thần học, kinh tế học, chính trị học và phân tích văn bản (phê bình kinh thánh và các tác giả kinh điển như Stendhal, Flaubert, Proust, Dostoevsky, Shakespeare và Cervantes). Ông cũng có những tiên tri chính xác, bằng cách sử dụng tri thức con người, về xung đột giữa các dân tộc, các cường quốc. Thậm chí dạy cả Peter Thiel cách “tiên tri” về kinh doanh, giúp Thiel trở thành nhà đầu  ưtiên tri, vì các khoản đầu tư của Thiel không chỉ tạo ra vàng (midas touch) mà còn mở ra những ngành mới, mảng mới (Paypal, Facebook, Palantir).

Là một nhà giáo uyên bác, sáng tạo, giàu ý tưởng nhưng chẳng mấy ai biết Girard đến ngoài các sinh viên bậc đại học ở Stanford những năm 198x, 199x. Một lý do ông khó nổi tiếng vì nhiều người cho rằng lý thuyết hoàn toàn dựa vào văn bản văn học và tôn giáo như như vậy, thiếu vắng dữ liêụ thực nghiệm, thì không đáng tin. Cũng như phân tâm học của Freud, thuyết của Girard  cũng không phải lý thuyết có thể kiểm sai (falsifiable) kiểu Popper và do đó không phải là “khoa học chặt chẽ”. Thế nhưng, như Geoffrey Hinton nói về phân tâm học “là kết hợp của vài thứ vô nghĩa với vài thứ insightfull”, lý thuyết của Girard cũng vậy. Thuyết của Girard có thể “fit mọi data”. Có thể dùng lý thuyết của ông dùng để giải thích xung đột và bạo lực đã và đang xảy ra ở các khu vực, dự đoán được các xung đột giữa các dân tộc và quốc gia. Khi các xung đột này thực sự xảy ra (Israel-Palestin, Mỹ-Trung) thì tự nhiên lại các dữ liệu thực tế củng cố cho lý thuyết Girard. Và ông trở thành nhà tiên tri của thời đại (Chính trị học bắt chước – Mimetic politics). (Như trên đã viết, tiên tri chiến tranh thương mại Mỹ Trung được Girard viết trong cuốn sách bình luận về binh pháp gia Carl von Clausewitz in năm 2009 tên là “Battling to the End”.)

*

Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần” là câu Chúa Jesu tiên tri về hành vi của thánh Phê Rô (Peter) người sau này đứng đầu Hội Thánh. Lúc này Jesus chưa bị hành hình còn Peter vẫn là môn đệ đi theo thầy. Khi Jesus bj bắt, Peter lén đi theo đến dinh thượng tế để xem người ta tra khảo Jesus. René Girard diễn giải câu chuyện này khác với các bài giảng thánh kinh truyền thống (cho rằng Peter Chối Chúa là sự yếu đuối của mỗi con người.

Girard cho rằng Peter chối Chúa, là câu chuyện lớn của kinh thánh. Peter xử sụ rất tầm thường, bình thường, như mọi cá nhân khác. Khi bị một người hầu gái trẻ hỏi “Peter có phải là người cùng hội với Jesus không vì cô nhận ra anh có giọng nói khác biệt (Peter nói giọng Galile, còn người dân xung quanh lúc đó nói giọng Jerusalem) chứng tỏ anh là người ngoài, không phải người “của bọn tôi”, thì Peter trả lời rằng “tôi không đi cùng người bị bắt (tức là Jesus). Girard đặt ra câu hỏi, nếu người hỏi không phải là người hầu gái trẻ hỏi mà là bà già thì Peter có chối không. Peter chối là  để chứng minh “tôi cũng là người giống như các cô, thuộc về nhóm dân như  các cô”. 

Peter phải chối Chúa vì bị ảnh hưởng/lây nhiễm từ áp lực của đám đông hung hãn (mob pressure). Peter phải tìm cách đứng chunng vào cùng họ, có chung kẻ thù với họ, thuộc về họ, cùng họ chỉ tay buộc tội một con dê làm vật tế thần (tức là kết tội Jesus).  Nhưng sự hy sinh của người bị đổ lỗi, buộc tội, tế thần là sự hy sinh của nạn nhận vô tội. Sau đó nạn nhân trở thành quyền năng lớn, lớn hơn quyền năng của đám đông. Hành động chối Chúa của Peter không có nguồn gốc vô thức, mà chỉ là lời nói vô thức. Nó không vô thức vì nó là hành động bị đám đông thúc đẩy. Peter chẳng hiểu (không ý thức được) việc mình làm. 

Girard nói rằng, mới chỉ vài thế kỷ trước, ai cũng tin vào Chúa, nay chẳng ai tin vào Chúa nữa. Đó không phải vì sức mạnh của khoa học, mà chỉ là hiện tượng xảy ra khi ai cũng phải chịu áp lực của đám đông hung hãn (mob phenomenon). Đây chính là Peter chối Chúa của thời hiện đại. Nhưng khi nghe gà gáy, Peter thức tỉnh, bởi Chúa là thầy, truyền cho anh kiến thức, Chúa cũng tiên tri rằng lúc gà gáy sáng anh sẽ phản chúa ba lần. Tiên tri của Jesus ở đây không phải là một nguồn cảm hứng thần thánh (để thức tỉnh Peter) mà là tri thức về con người, giúp Peter hiểu con người, cộng đồng, xã hội, qua đó chuyển đổi trạng thái của Peter, biến ông từ một cá nhân bình thường với đủ các tâm lý sợ hãi yếu hèn hoà lẫn trong đám đông trở thành một vị tông đồ đại diện cho các tông đồ (đứng đầu Hội thánh).

Peter chối Chúa là câu chuyện ai theo đạo cũng biết, và vì chuyện này mà nhà thờ hay có con gà trên mái (nhà thờ Con Gà ở Đà Lạt). Nhưng cách René Girard diễn giải lại câu chuyện này từ góc nhìn của nhân học (như trên), tự nhiên nó có sức lay động khác thường.

*

Mới đây tờ Financial Times có bài “Tôi có thể học được gì từ René Girard” có tóm tắt lại các pha ăn miếng trả miếng, đòn thù phang qua phang lại nhau của hai phe chính trị Mỹ kể từ 1980 đến nhiệm kỳ hiện tại của Trump rồi lý giải nó bằng lý thuyết của Girard. Kết thúc bài báo là một câu trích dẫn của Girard: “Bạo lực luôn được coi là một sự trả thù chính đáng. Không ai cảm thấy có trách nhiệm về việc chính mình đã  kích hoạt nó.”

Bài cũng trích một câu khác của Girard: “Hãy chọn kẻ thù của bạn một cách cẩn thận; vì chẳng mấy mà bạn sẽ trở nên giống họ.”

*

René Girard nói:

“Khi giới được toàn cầu hóa, ta có thể đốt cháy tất cả chỉ bằng một que diêm.”

“Chúng ta nhận thức được rằng toàn cầu hóa không mang nghĩa một tình bằng hữu toàn cầu mà là ganh đua toàn cầu, và do đó sẽ dẫn đến xung đột. Điều đó không có nghĩa rằng  chúng ta sẽ hủy diệt lẫn nhau, nhưng đó cũng không phải là một ngôi làng toàn cầu hạnh phúc.”

“Cái tôi sâu sắc là cái tôi phổ quát.”

“Cứ nhìn vào giới học thuật, đó là một đàn cừu khổng lồ con nào cũng giống nhau đều là chủ nghĩa cá nhân.”

Hãy chọn kẻ thù của bạn một cách cẩn thận vì bạn sẽ trở nên giống họ.” ~

“Ngày nay, ít người muốn trở thành thánh nhân, nhưng ai cũng đang cố giảm cân.”

*

Girard cho rằng con người là giống loài có thể phá huỷ chính thế giới của mình. Ý tưởng của ông là kẻ thù luôn bắt chước nhau và leo thang đến ngưỡng cực đoan (escalating to extremes). Xung đột tôn giáo, lãnh thổ, vũ trang chắc chắn sẽ leo thang, bởi khủng hoảng lớn sẽ xảy ra khi cơ chế tìm nạn nhân để đổ lỗi thất bại. Bạo lực sẽ lan tràn và sẽ là tận thế. Cách duy nhất để dừng vòng xoáy leo thang là dùng phi bạo lực để đáp trả bạo lực. Như Chúa nói, người ta tát anh má này, hãy chìa má kia ra. Hay như VN nói, lùi một bước trời yên biển lặng.

Nhưng đó là câu chuyện của thế giới, còn chuyện của VN, chưa thấy một nhà tư tưởng nào, một triết gia nào, một người hành động nào thấm nhuần các tư tưởng hiện đại, nhìn xuyên thấu vào tâm can xã hội và hiện tượng, để có những giải pháp kiểu Peter Thiel. 

Hoặc ít nhất, là để thế hệ trẻ sống ý nghĩa trong một xã hội có ý nghĩa và một thế giới quan có nghĩa, thay vì phải sống trong một xã hội ganh đua chết người vì vật chất và nghề nghiệp 

*

Hôm nay 19/8, bài này là kết thúc loạt bài kỷ niệm cách mạng 80 năm. Bắt đầu từ bài Vương Hộ Ninh, qua loạt bài về AI, Peter Thiel và Curtis Yarvin. Kết thúc bằng René Girard.

 •  0 comments  •  flag
Share on Twitter
Published on August 18, 2025 21:43
No comments have been added yet.


Nguyễn Phương Văn's Blog

Nguyễn Phương Văn
Nguyễn Phương Văn isn't a Goodreads Author (yet), but they do have a blog, so here are some recent posts imported from their feed.
Follow Nguyễn Phương Văn's blog with rss.